
Mái nhà lợp bằng gỗ Pơ mu thường thấy ở vùng cao khi xưa
Nhìn
chung, sự mất mát và sự suy giảm đa dạng sinh vật ở Việt Nam có thể phân biệt
bởi 4 nhóm nguyên nhân cơ bản sau:
-
Sự suy giảm và sự mất đi nơi sinh cư. Sự suy giảm và sự mất đi nơi sinh cư có
thể do các hoạt động của con người như sự chặt phá rừng (kể cả rừng ngập mặn),
đốt rừng làm rẫy, chuyển đổi đất sử dụng, khai thác huỷ diệt thuỷ sản..., các
yếu tố tự nhiên như động đất, cháy rừng tự nhiên, bão, lốc, dịch bệnh, sâu
bệnh.
-
Sự khai thác quá mức. Do áp lực tăng dân số, sự nghèo khổ đã thúc đẩy sự khai
thác quá mức tài nguyên sinh vật và làm giảm ĐDSH. Đáng kể là tài nguyên thuỷ
sản ven bờ bị suy kiệt nhanh chóng. Mặt khác, một số phương thức khai thác có
tính huỷ diệt nguồn lợi thuỷ sản như nổ mìn, hoá chất đang được sử dụng, đặc
biệt các vùng ven biển.
- Ô
nhiễm môi trường. Một số HST ĐNN bị ô nhiễm bởi các chất thải công nghiệp, chất
thải từ khai khoáng, phân bón trong nông nghiệp, thậm chí chất thải đô thị.
Trong đó đáng lưu ý là tình trạng ô nhiễm dầu đang diễn ra tại các vùng nước
cửa sông ven bờ, nơi có hoạt động tầu thuyền lớn.
- Ô
nhiễm sinh học. Sự nhập các loài ngoại lai không kiểm soát được, có thể gây ảnh
hưởng trực tiếp qua sự cạnh tranh, sự ăn mồi hoặc gián tiếp qua ký sinh trùng,
xói mòn nguồn gen bản địa và thay đổi nơi sinh cư với các loài bản địa.
a.
Nguyên nhân trực tiếp
Khai
thác, sử dụng không bền vững tài nguyên sinh vật:
-
Khai thác gỗ: Trong giai đoạn từ 1986-1991, các lâm trường quốc doanh đã khai
thác trung bình 3,5 triệu mét khối gỗ mỗi năm. Thêm vào đó, khoảng 1-2 triệu m3
gỗ được khai thác ngoài kế hoạch. Số gỗ này nếu qui ra diện tích thì mỗi năm bị
mất đi khoảng 80.000 ha rừng. Ngoài ra,, nạn chặt gỗ trái phép thường xảy ra ở
khắp nơi, kể cả ở các trong các khu rừng bảo vệ. Hậu quả là rừng có chất lượng
bị cạn kiệt nhanh chóng.
-
Khai thác củi: Theo thống kê, trong phạm vi toàn quốc, hàng năm một lượng củi
khoảng 21 triệu tấn được khai thác từ rừng phục vụ cho nhu cầu sử dụng trong
gia đình. Lượng củi này nhiều gấp 6 lần lượng gỗ xuất khẩu hàng năm (Phạm Bình
Quyền và nnk, 1999).
Như
vậy, có thể thấy sự khai thác gỗ, củi mà không có kế hoạch trồng mới bù đắp cả
về số lượng diện tích cũng như chất lượng rừng với tính chất rừng nhiệt đới
nhiều tầng thì diện tích rừng bị suy giảm không chỉ về diện tích mà còn bị suy
thoái về chất lượng. Đây là nguyên nhân cơ bản tác động tới ĐDSH, đặc biệt với
quần xã động vật có xương sống hoang dã ở các sinh cảnh rừng.

Khai thác gỗ, củi quá mức là nguyên nhân trực tiếp
gây suy thoái tài nguyên rừng
-
Khai thác động vật hoang dại: đồng thời với nạn phá rừng, nạn săn bắn cũng gây
nên tình trạng suy giảm ĐDSH. Theo điều tra, năm 1995 toàn quốc có tới 39.671
khẩu súng các loại hiện đang sử dụng để săn bắn chim thú, bình quân mỗi thôn
bản có 12 khẩu (Đỗ Tước, 1997). Với số lượng người đi săn với những thứ vũ khí
kể trên chưa kể đến các loại bẫy thường dùng như: bẫy treo, bẫy kẹp, bẫy thòng
lọng, bẫy sập, bẫy lồng, lưới...nên số lượng cá thể động vật rừng bị săn bắt
khá cao. Chỉ kể 18 loài động vật thuộc diện quí hiếm đã ghi trong sách đỏ Việt
Nam, từ năm 1991-1995, đã có tới 8.964 cá thể bị săn bắt, bình quân hàng năm có
tới 1.743 cá thể động vật quí hiếm bị săn bắt (Đỗ Tước, 1997).
Săn bắt động vật hoang phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng và xuất khẩu
Nếu
như trước những năm 1970, rừng còn rất phong phú, đa dạng với các loài thú,
chim, bò sát như Voi, Tê giác, Hổ, Báo, các loài bò rừng, Trâu rừng, các loài
trăn, rắn... , thì nay ngay cả ở nhiều khu bảo tồn thiên nhiên, thậm chí vườn
quốc gia, khó mà quan sát được các loài trên. Một số loài động vật lớn trên
thực tế hầu như đã bị diệt vong như: Tê giác Hai sừng (Dicerorhynus
sumatrensis), Heo vòi (Tapia indicus), Trâu rừng (Bubalus bubalis), Vượn tay
trắng (Hylobates lar), Cầy nước (Cynogale bennetti). Một số loài khác số lượng
còn quá ít, có thể bị tuyệt chủng như các loài hổ, tê giác một sừng (Rhinoceros
sondaicas), Bò xám, Bò rừng, Bò tót, Hươu vàng, Hươu xạ, Hạc Cổ trắng, Cò á
Châu, Giã đẩy lớn, Cò quắm cánh xanh, Ngan cánh trắng, Gà so cổ hung, Gà lôi
lam mào trắng, Gà lôi lam mào đen, Gà lôi tía, Công, ...
Hươu
xạ (Moschus moschifurus) là loài quý hiếm chỉ tập trung ở vùng Đông-Bắc (Cao
Bằng, Lạng Sơn). Do giá 1 túi xạ là 1 triệu đồng cho nên loài này bị săn bắt
nhiều. Thống kê riêng khu Bảo tồn Thiên nhiên Hữu Liên (Lạng Sơn) trong thời
gian 1996-2000, ít nhất 76 con hươu xạ đã bị săn bắt. Theo số liệu điều tra,
khu Bảo tồn Hữu Liên hiện nay chỉ còn 83-108 con hươu xạ (Nguyễn Xuân Đặng và
nnk., 2000).
Trong
vài năm trở lại đây, gần nhất là trong tháng 6/2001, việc các đàn voi rừng hung
dữ phá hoại nhà cửa, mùa màng và nghiêm trọng hơn là giết hại dân ở một số địa
phương miền Đông Nam Bộ đang là mối đe doạ cho chúng ta. Điều đó ai cũng hiểu
rằng đây là phản ứng tự nhiên của bầy voi hoang dã khi nơi cư trú của chúng đã
bị xâm hại và thu hẹp. Mặt khác, trong đàn voi, thiếu voi đực (do bị săn lấy
ngà) cũng làm các con voi cái trở nên hung dữ, nhất là trong thời kỳ động
dục.
Với
sinh vật biển, tình trạng khai thác HST ven bờ-nơi cư trú của nhiều loài thuỷ
sinh vật có giá trị khoa học và kinh tế đang trở nên khó kiểm soát. Rừng ngập
mặn, vùng cửa sông, vùng nước ven bờ, các đảo với nhiều rạn san hô đang là nơi
bị khai thác với cường độ cao nhất, thậm chí có tính huỷ diệt (sử dụng mìn,
điện, hoá chất cyanua, các loại lưới mắt nhỏ khai thác thuỷ sản). Các khảo sát
vào tháng 10, 11/ 2001 và tháng 4/ 2002 tại một số đảo phía Nam cho thấy một số
hiện trạng về tài nguyên đặc hải sản ở đó như sau:
Tại
đảo Phú Quốc (Kiên Giang), tình trạng khai thác Bào ngư, Hải sâm, Trai ngọc đã
đến lúc báo động. Do nguồn lợi suy giảm, nghề lặn để khai thác Bào ngư, Hải sâm
ở đây đã phải chuyển sang khai thác tại các vùng nước quanh các đảo nhỏ thuộc
Căm Pu Chia. Ngoài các nhóm trên, ngư trường đánh bắt cá Cơm (nguồn nguyên liệu
nấu nước mắm Phú Quốc truyền thống) và các hải sản khác ở quanh biển Phú Quốc
cũng suy giảm, một số lớn các tàu đánh bắt cá phải di chuyển sang khai thác ở
vùng biển Căm Pu Chia (phải nộp tiền).
Tại
Đảo Phú Quý (Bình Thuận), Nghề khai thác hải sản tự nhiên là nghề phát triển
lâu đời đồng thời là ngành kinh tế then chốt và là nguồn thu chủ yếu của đảo.
Phú Quý có 3 xã thì cả 3 xã đều phát triển nghề khai thác cá. Một số điều đáng
chú ý trong nghề khai thác hải sản ở đảo Phú Quý là do nguồn lợi vùng rạn san hô
và vùng nước ven đảo giảm nên một số đối tượng như cá Mập (lấy vây), ốc tay
ngoéo miệng vàng (Lambis crocata) và nhiều loài khác như Hải sâm và các loại
vốn trước đây có nhiều nay phải khai thác ở vùng đảo biển khơi thuộc quần đảo
Trường Sa. Đặc biệt, có hiện tượng ngư dân đảo Phú Quý ra Trường Sa khai thác
loài trai Tai tượng khổng lồ Tridacna gigas để lấy vỏ đang diễn ra rất mạnh (số
liệu thống kê riêng năm 2001: 325 tấn vỏ).
-
Khai thác các sản phẩm khác: Trong số khoảng 3.300 loài thực vật cho các sản
phẩm ngoài gỗ như song mây, tre nứa lá, cây thuốc, cây tinh dầu… đã được khai
thác nhiều để dùng và bán trên các thị trường trong nước cũng như xuất khẩu.
Trầm, một loại thuốc đặc biệt qúy hiếm, một loại hương liệu cao cấp đã bị săn
lùng khai thác để xuất khẩu. Chỉ trong một số năm, có tới trên 300 tấn trầm đã
bị bán ra nước ngoài. Các dẫn liệu trong bảng 6.8 cho thấy, chỉ sau năm năm
khai thác, một lượng trầm khá lớn đã bị mất đi đồng thời còn chứng tỏ khối
lượng trầm khai thác được cũng ngày càng giảm xuống rõ rệt.
Bảng
6.8. Khối lượng trầm đã bị khai thác tại Việt Nam (Trong thời kỳ 1986 - 1990)
Năm
|
Khối lượng
(tấn)
|
Ghi chú
|
1986
|
78,5
|
Nguồn tài
liệu của Lương Văn Tiến (1992).
|
1987
|
81,7
|
|
1988
|
45,4
|
|
1989
|
36,9
|
|
1990
|
20,0
|
|
Nguồn:
Lã Đình Mỡi, 2001
Theo
tính toán của Liên hiệp khoa học Tinh dầu-Hương liệu-Hoa Kỳ phẩm Việt Nam thì
trong những năm từ 1980 - 1990, khối lượng trầm loại 5-9 xuất khẩu lậu từ nước
ta vào khoảng 300 tấn và chừng 2.000 kg loại 1-4, trên 3.000 kg Kỳ nam loại đặc
biệt. Chúng ta biết rằng, không phải cá thể nào của loài Trầm hương (Aquilaria
crassna) cũng có trầm. Và nếu có thì trong mỗi cây Trầm hương, dù là gỗ lớn
cũng chỉ có một vài mẩu trầm với khối lượng nhỏ chỉ nặng vài ba lạng. Những con
số trên cho chúng ta thấy tình trạng chặt phá Trầm hương ở Việt Nam đã ở mức độ
nào. Chạy theo lợi nhuận (tuỳ theo chất lượng, mà giá trầm trên thị trường thay
đổi từ 27 đô la Hoa Kỳ/kg đến 10.000 USD/kg), Trầm hương đã và đang là đối
tượng săn lùng khai thác quyết liệt.
Cháy
rừng
Do
điều kiện khí hậu của Việt Nam, khả năng cháy rừng vào mùa khô hàng năm là rất
lớn. Trung bình mỗi năm có 25.000-100.000 ha rừng bị cháy ở Việt Nam, nhất là ở
vùng cao nguyên Trung Bộ. Theo các thống kê, kể từ năm 1995 trở lại đây, cháy
rừng đã được giảm nhiều so với thời gian trước dó nhưng mức độ trầm trọng của
cháy rừng lại cao hơn như vụ cháy rừng tràm U Minh trong các năm 2002,2003. Sự
kiện cháy rừng vào tháng 3, 4 năm 2002 tại vườn Quốc gia U Minh Thượng là một
tai hoạ đối với tài nguyên sinh vật và ĐDSH. Vườn Quốc gia U Minh Thượng là
vùng rừng tự nhiên trên ĐNN có nền đất than bùn. Rừng U Minh Thượng bị cháy
khoảng 4.000 ha, rừng U Minh Hạ bị cháy khoảng 300 ha. Tại U Minh Thượng, trước
khi bị cháy rừng đã thống kê được 32 loài thú. Sau khi bị cháy, ít nhất có 25
loài thú (78,2%) bị ảnh hưởng với các mức độ khác nhau. Một số loài có nguy cơ
không gặp lại ở HST độc đáo này: Dơi ngựa lớn Pteropus vampirus; Sóc lửa
Callosciurus finlaysoni; Rái cá lông mũi Lutra sumatrana; Rái cá vuốt bé Aonyx
cirerea; Mèo cá Prrionailurus viverinus; Tê tê Manis javanica; Cầy giông đốm
lớn Viverra megaspila; Cầy vòi hương Paradoxurus hermaphroctulus; Dơi ngựa Thái
lan Pteropus lylei; Mèo rừng Prionailurus bengalensis.
Các
loài chim vì có khả năng di chuyển nhanh nên ảnh hưởng ngay lập tức không lớn.
Tuy nhiên, về lâu dài, cấu trúc thành phần loài chim thay đổi do mất nơi cư trú
hoặc nguồn thức ăn từ quả, hạt, thuỷ sinh vật. Trước khi bị cháy, tại vườn Quốc
gia U Minh thượng có 94 loài chim thuộc 15 họ. Kết quả kiểm kê sơ bộ sau vụ
cháy rừng, chỉ còn 76 loài chim thuộc 11 họ. Một số loài không gặp lại như: Bồ
nông chân xám Pelicunus philippinensis; Cốc đen Phalacrocolax niger; Cổ rắn
Anhinga melunogaster; Quắm đen Pelegaclis falcinellus; Quắm trắng Threskiornis
melanocephalus; Cò lao ấn Độ Myctera leucocephala; Cò Nhạn Anatomus oscitans;
Hạc cổ trắng Ciconia episcopus; Diều hâu Milvus migrans; Ưng xám Accipiter
badius; Đại bàng đen Anguila clanga; Cú lợn lưng xám Tylo alba; Quạ đen Corvus
macrorhynchus; Sáo đá Trung Quốc Sturnus sinensis; Sáo sậu S.
nigricollis.
Các
loài bò sát cũng bị ảnh hưởng sau vụ cháy rừng: Tắc kè Gecko gecko; Kỳ đà vằn
Varanus salvador; Trăn đất Python molurus; Rùa rảo thường Ptyas korrus; Rắn ráo
trâu Ptyas mucosus; Rắn cạp nong Bungarus fasciatus; Rắn Hổ mang Naja naja; Rắn
hộp lưng đen Cuora amboimensis.
Bên
cạnh các diễn biến bất lợi của yếu tố thời tiết, khí hậu Việt Nam cũng như toàn
cầu thì các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên rừng của người dân địa
phương như đốt rừng làm rãy, đốt than, hun khói lấy mật ong, khai thác gỗ chọn
để lại cây bụi... là những nguyên nhân gây cháy rừng.
Chuyển
đổi phương thức sử dụng đất
Trong
thời gian gần đây, do nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, các HST rừng tự nhiên
tự nhiên với tính ĐDSH cao bị thu hẹp diện tích hoặc chuyển sang các HST thứ
sinh khác. Chỉ riêng hình thức du canh, du cư của một số dân tộc vùng núi đã
biến 13 triệu ha rừng thành đất trống, đồi núi trọc. ở Tây Nguyên và vùng Đông
Nam Bộ, đã có lúc rừng bị phá ồ ạt và chuyển sang trồng các cây công nghiệp như
cà phê, tiêu, cao su, điều. Sau đó, do đầu ra khó khăn nên cao su, cà phê lại
bị chặt bỏ để trồng cây khác. ở huyện Ea Súp (Đắc Lắc) đã có chủ trương thay
23.000 ha đất rừng cây họ dầu Dipterocarpus để trồng điều. Việc làm này đã làm mất
nơi cư trú của một số loài thú đặc trưng cho rừng khộp như Bò tót (Bos gaurus),
Bò rừng (Bos banteng), Nai (Cervus unicolor)... Nhiều diện tích rừng ở phía Bắc
bị phá để trồng các cây lương thực năng xuất thấp, sau đó để hoang hoá thành
đồi núi trọc.
Việc
chuyển đổi đất hoang hóa, ĐNN thành ruộng lúa nước đã được thực hiện từ nhiều
đời nay. Việc hình thành đồng lúa nước ở vùng đất bồi ven biển từ Thái Bình đến
Ninh Bình đã được ghi nhận từ thời Nguyễn Công Trứ . Việc làm này đã thể hiện
tác động của con người gia tăng tốc độ diễn thế sinh thái của vùng triều cửa
sông có sự bồi tụ trầm tích từ lục địa.
Vùng
ĐNN Đồng Tháp Mười với diện tích khoảng 697.000 ha cách đây khoảng 300 năm còn
là vùng đầm lầy hoang hóa mênh mông với quàn xã lau, sậy, lăn, sen, súng và
tràm. Cho đến nay, vùng Đồng Tháp Mười đã có 625.000 ha ruộng lúa với sản lượng
hàng năm trên 2,7 triệu tấn. Như vậy, có thể thấy vùng Đồng Tháp Mười, nguyên
là vùng đất trũng, ngập nước điển hình đã có xu hướng thành vùng đất trồng lúa.
Thành công nổi bật của quá trình khai thác Đồng Tháp Mười từ một vùng đầm lầy
hoang hóa, nhiễm phèn thành một nơi cung cấp hàng năm trên 2,7 triệu tấn thóc
là một sự chuyển biến vượt bậc, như một cuốc cách mạng mà bao đời nay chưa làm
được (Báo cáo tổng kết 10 năm khai thác và phát triển KTXH Đồng Tháp Mười
1987-1997). Tuy vậy, vùng Đồng Tháp Mười với bản chất tự nhiên trước đây là HST
đầm lầy nhiễm phèn có quần xã thực vật cổ xưa thích nghi là cây Tràm, Súng,
Sen, Đưng…chiếm ưu thế và hệ động vật hoang dã trong đó với chức năng cơ bản là
bồn trữ nước, nạp nước ngầm, giảm thiểu tác động của lũ và với thuộc tính đa
dạng dạng sinh học cao nhưng nay diện tích HST này bị thu hẹp để chuyển thành
HST ruộng lúa với chức năng chủ yếu là cung cấp lương thực nhưng thuộc tính ĐDSH
không còn cao nữa. Việc tăng diện tích trồng lúa đồng thời với việc sản xuất
tăng vụ (3 vụ lúa) đã thực hiện tháo cạn nước sớm cuối mùa lũ, bao đê chắn lũ
sớm đầu mùa lũ. Điều đó đã thu hẹp vùng sinh sống của nhiều loài thủy sinh vật
tự nhiên, đặc biệt là các loài trong nhóm “cá đen” (họ cá lóc Channidae, cá rô
đồng Anabantidae, họ cá trê Claridae, họ lươn Sybranchydae, họ cá Thát lát
Notopteridae) là nhóm cá bản địa.
Trong
tương lai, dự báo diện tích của khu bảo tồn thiên nhiên rừng tràm nơi sinh cư
của nhiều loài thuỷ sản, nơi di trú của đàn Sếu đầu đỏ sẽ ở mức khiêm tốn dưới
10.000ha (chiếm 1,43% đất tự nhiên ở vùng Đồng Tháp Mười). Với diện tích này
khó giữ được chức năng dự trữ sinh quyển cho vùng sinh thác đặc thù ở đây (Đoàn
Cảnh và nnk., 2003).
Chuyển
đổi rừng ngập mặn sang đầm nuôi thủy sản: chức năng của rừng ngập mặn là rừng
phòng hộ ven biển, giữ đất, chắn sóng, chống sói mòn, bảo vệ bờ, …với thuộc
tính là HST nhạy cảm với mức ĐDSH rất cao đồng thời là nơi sinh cư của nhiều
loài thủy sản giai đoạn con non. Các kết quả thống kê cho thấy trước đây, riêng
diện tích rừng ngập mặn (RNM) ở đồng bằng sông Cửu Long khoảng 250.000ha. Sau
này một phần do chiến tranh (khoảng 120.000 ha RNM bị phá huỷ bởi chất độc hóa
học của Hoa Kỳ), một diện tích không nhỏ RNM bị khai thác lấy củi, để nuôi tôm,
cấy lúa. Cho đến năm 1998, đồng bằng sông Cửu Long chỉ còn khoảng 77.000 ha RNM
với chất lượng nghèo, tập trung phần lớn ở tỉnh Cà Mau. Khoảng hai năm trở lại
đây, ở Cà Mau, phong trào cải tạo ruộng lúa thành vuông tôm đã phát triển tới
mức không kiểm soát được.
Chuyển
đổi đất trồng lúa thành đầm nuôi thủy sản: ở một số vùng ven biển Bắc Bộ, Bắc
Trung Bộ và Nam Bộ, nhiều diện tích đất trồng lúa ở ven biển năng xuất thấp đã
được cải tạo để chuyển sang đầm nuôi hải sản. Các kết quả khảo sát năm 2003
riêng tại huyện Tiền Hải, Thái Bình đã cho thấy từ năm 2002, khoảng 350 ha đồng
muối và ruộng lúa đã được cải tạo thành đầm nuôi tôm sú P. monodon và cua biển
Scylla spp.... riêng xã Nam Cường đã cải tạo 93 ha ruộng lúa sang đầm nuôi tôm,
cua. Kết quả nuôi năm đầu tiên khả quan. Thu nhập từ 1 ha nuôi tôm sú gấp 10
lần so với trồng lúa. Tuy nhiên, đây là năm đầu tiên của chuyển đổi tính năng
sử dụng của một kiểu HST, việc quy hoạch sử dụng hợp lý các HST vốn có sang
HST khác phải tính đến các tác động lâu dài.
Chuyển
vùng cát thành đầm nuôi tôm công nghiệp: vùng cát ven biển là kiểu HST đặc thù
của vùng Trung Bộ. Theo thống kê, tổng diện tích vùng cát từ Hà Tĩnh đến Ninh
Thuận là 85.100 ha. Đến năm 2001, 571,4 ha vùng cát đã được cải tạo thành đầm
nuôi tôm công nghiệp. Riêng Phú Yên và Ninh Thuận có diện tích nuôi tôm trên
cát đã tới 300 ha. Hầu hết vùng cát ven biển là vùng hoang hóa với chức năng
chủ yếu là rừng Phi lao phòng hộ chắn cát. Việc chuyển vùng cát sang đầm nuôi tôm
sú với năng xuất trung bình ở Ninh Thuận 5,54 tấn/ha/vụ rõ ràng đã mang lại lợi
nhuận rất lớn, góp phần xóa đói giảm nghèo cho nhân dân ở vùng đất nghèo khó
này, nâng cao đời sống xã hội cho địa phương.
Tuy
nhiên, điều muốn nhấn mạnh ở đây là sự phát triển loại hình nuôi tôm trên cát
phải tính đến khả năng cung cấp nước ngọt. Theo tính toán 1 ha nuôi tôm 1 vụ
cần 16.380-27.300 m3 nước ngọt, nếu nuôi 2 vụ thì lượng nước ngọt tăng gấp đôi.
Hiện nay, lượng nước ngọt cung cấp cho việc nuôi tôm trên cát chủ yếu được khai
thác từ nước ngầm. Vậy, nếu không cân đối diện tích nuôi tôm trên cát với trữ
lượng nước ngầm thì việc khai thác lạm dụng nguồn nước ngầm sẽ phải xảy ra.
Điều đó dẫn đến tình trạng sụt lún địa tầng, tăng xâm nhập mặn, gây ảnh hưởng
đến môi trường chung. Mặt khác, tăng diện tích nuôi tôm trên cát dẫn tới giảm
diện tích rừng phi lao phòng hộ, góp phần làm tăng nhanh tốc độ lấn cát sâu vào
đất liền.
Từ
những dẫn liệu trên có thể thấy một số hậu quả về môi trường do nhu cầu phát
triển, việc chuyển đổi chức năng và thuộc tính của một số HST tự nhiên sang HST
thứ sinh đang trở thành một thực tế trong xã hội.
Diện
tích rừng tự nhiên với hệ thực vật rất phong phú vốn là nơi cư trú cho nhiều
loài động vật hoang dã bị suy giảm số lượng do chuyển đổi thành nương ráy hoặc
trông cây công nghiệp như cà phê, cao su...
Diện
tích các HST ĐNN vốn có, là nơi cư trú của nhiều loài động vật bản địa với
thuộc tính ĐDSH cao bị giảm đi rõ rệt cùng với sự suy thoái về chất lượng các
HST này: sự suy giảm số lượng và suy thoái chất lượng rừng ngập mặn do phá rừng
xây dựng đầm nuôi tôm, sự suy giảm diện tích rừng tràm và đầm lầy do được cải
tạo thành đất nông nghiệp.
Ở
vùng Đồng Tháp Mười, việc cải tạo thủy lợi làm thay đổi chế độ thủy văn làm cho
lượng phèn tăng cao dẫn tới gia tăng các hợp chất độc hại như hàm lượng lưu
huỳnh, các ion kim loại. Phát triển hệ thống kênh mương cũng là điều kiện để
xâm nhập mặn lớn hơn.
Thâm
canh nông nghiệp đồng nghĩa với gia tăng lượng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón
hóa học nếu không được sử dụng hết, lượng dư thừa sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới
môi trường bên ngoài.
Các
đầm nuôi tôm thâm canh, công nghiệp với lượng nước thải lớn hầu như không được
xử lý gây ô nhiễm môi trường tiếp nhận nước thải đồng thời gây bệnh dịch tôm
hàng loạt.
Việc
biến các bãi triều tự nhiên thành các vùng nuôi ngao (Meretrix spp.) với mật độ
nuôi rất lớn cũng gây ra những vấn đề môi trường nuôi, tỷ lệ chết của đối tượng
nuôi cao.
Việc
chuyển đổi HST tự nhiên diễn ra mỗi nơi mỗi khác nhau. ở vùng ven biển: phá
rừng ngập mặn, cải tạo vùng cát, ruộng lúa nước để xây dựng đầm tôm, biến vùng
bãi triều tự nhiên thành bãi nuôi động vật thân mềm. ở vùng nội địa: các HST rừng
tràm, đầm lầy được cải tạo thành ruộng lúa, ao nuôi thủy sản. Như vậy, nếu xem
xét về bản chất thì hầu hết sự chuyển đổi đó đã dẫn tới sự xung đột về mục tiêu
sử dụng chức năng của cùng một HST ĐNN giữa các các ngành kinh tế Nông, Lâm và
Ngư nghiệp.
Ô
nhiễm môi trường
Hiện
nay, chất lượng môi trường nhiều nơi, nhiều lúc đã tới mức báo động. Nhiều
thành phần môi trường bị suy thoái, tình trạng ô nhiễm do các nguồn thải khác
nhau (nước thải, khí thải, chất thải rắn) là nguyên nhân đe doạ tới ĐDSH. Trực tiếp
là gây chết, làm giảm số lượng cá thể, gián tiếp làm huỷ hoại nơi cư trú và môi
trường sống của các loài sinh vật hoang dại.
Việc
tiếp nhận nước thải với hàm lượng dinh dưỡng cao đã gây sự phú dưỡng của hầu
hết các hồ ở Hà Nội và các khu dân cư, đô thị khác. Sự phú dưỡng đã gây hiện
tượng nở hoa thực vật nổi (algel bloom) mà điều quan trọng là đóng góp chính
cho sự nở hoa thực vật nổi ở các hồ nội địa là nhóm tảo lam tấm (Microcystis
spp.), là loài tảo độc nguy hại tới môi trương sống của nhiều loài động vật
thủy sinh và chất lượng nước. Vùng nước ven biển, hiện tượng thủy triều đỏ,
thủy triều xanh thường xảy ra là hệ quả của sự gai tăng các nguồn thải giàu
dinh dưỡng từ các hoạt động kinh tế vùng ven biển.
Gần
đây, ở vùng nước ven bờ TP Hạ Long, các nghiên cứu cho thấy do các hoạt động
phát triển kinh tế-xã hội mạnh mẽ làm tăng các chất gây độc như dầu, lượng trầm
tích, nước thải thu hẹp diện tích hoặc làm suy thoái các HST nhạy cảm ven biển
ở đây như HST rừng ngập mặn, san hô, cỏ biển. Mặt khác, sự ô nhiễm còn làm giảm
chất lượng cúa các nhóm sinh vật có giá trị kinh tế do khả năng tích tụ các độc
tố (các kim loại nặng.. .) trong cơ thể.
Chiến
tranh
Chiến
tranh cũng là một trong những nguyên nhân làm suy giảm ĐDSH. Đáng kể nhất là
chiến tranh Đông Dương lần thứ hai. Trong giai đoạn từ 1961-1975, Hoa Kỳ đã ném
13 triệu tấn bom và rải 72 triệu lít chất độc hóa học chủ yếu ở miền Nam Việt
Nam. Ở miền Nam Việt Nam, các nghiên cứu đã xác định chất da cam/dioxin do Hoa
Kỳ sử dụng trong chiến tranh đã ngay lập tức phá hủy các HST rừng nhiệt đới,
cho đến nay đã 30 năm kể từ khi chiến tranh chấm dứt, chất da cam/dioxin vẫn
ảnh hưởng lâu dài đến ĐDSH. Các nghiên cứu gần đây tại A Lưới, Thừa Thiên-Huế
(một trong những vùng bị rải chất độc hoá học nặng nề nhất) bước đầu đã nhận
định rằng:
Ảnh
hưởng của chất độc hoá học được sử dụng trong chiến tranh đã ảnh hưởng lâu dài
đến ĐDSH ở đây. Hầu hết các quần xã sinh vật trong các HST trên cạn và dưới
nước đều có các biểu hiện bị tác động của chất da cam/dioxin với các mức độ
khác nhau. Lưới thức ăn tự nhiên của nhiều nhóm động vật lớn vẫn chưa được hồi
phục.
Thảm
thực vật nhiệt đới trước đây vốn phong phú, nhiều tầng chưa phục hồi trở lại.
Những nơi bị ảnh hưởng bởi chất độc hoá học (điển hình ở xã Đông Sơn), là các
trảng cỏ, cây bụi, cây sim thay thế rừng gỗ trước đây và vẫn tồn tại gần 30 năm
nay mà không thể phát triển diễn thế tiếp theo để phục hồi lại thảm thực vật
rừng.
Khu
hệ thú rừng kém phong phú, thành phần loài và mật độ thú rất thấp. Tại xã Đông
Sơn, 19 loài động vật quý hiếm đã không thấy trở lại.
Sự
suy giảm hoặc mất sinh cảnh sống
Tai
biến tự nhiên cùng với sự khai thác quá mức tài nguyên sinh vật cũng như các
hoạt động khác nhằm phục vụ lợi ích khác nhau đã làm suy giảm hoặc mất các nơi
sinh cư tự nhiên của động vật hoang dã.
Rừng
là một kiểu HST lớn, đặc biệt rừng nhiệt đới nhiều tầng là nơi cư trú cho hầu
hết các loài sinh vật hoang dã trên các HST ở cạn, đặc biệt các loài có xương
sống (thú, chim, bò sát). Ngoài ra, rừng còn là điều kiện để duy trì các sinh
cảnh ĐNN trong rừng như suối, thượng lưu các sông với hệ thủy sinh vật rất đặc
trưng và đa dạng. Tại các sinh cảnh thủy vực này, nhiều loài động vật thủy sinh
mới được phát hiện. Những vùng bị mất rừng đã mất đi hoặc thu hẹp lại môi
trường sống hay nơi cư trú của các loài. Việc mất đi một diện tích rừng có chất
lượng cao từ trước đến nay là một nguyên nhân cơ bản làm suy giảm đa dạng sinh
vật trên cạn ở Việt Nam. Việc khai thác khoáng sản không có quy hoạch cũng làm
suy giảm ĐDSH ở nhiều vùng. Khu vực Tripksơ và Earal (Đắc Lắc) là nơi duy nhất
còn giữ được quần thể rất nhỏ với 250 cá thể cây thông nước (Glyptastralus
pensilis) là loài có trong Sách Đỏ Việt Nam.
Việc
xây dựng các hồ chứa nước lớn cho các mục tiêu thủy lợi, thủy điện bên cạnh làm
mất đi một số diện tích rừng đồng thời cũng là một trong những yếu tố làm mất
một số bãi đẻ trứng của nhiều loài cá có tập tính di cư lên thượng nguồn các
sông đẻ trứng. Hoạt động điều tiết của các hồ chứa nước lớn cũng đã làm thay
đổi một số đặc điểm tự nhiên vùng hạ lưu và đặc biệt làm thay đổi chế độ mặn
vùng nước cửa sông ven biển.
Các
HST ven biển đặc thù cho vùng biển nhiệt đới như rạn san hô, cỏ biển được xác
định là nơi cư trú quan trọng cho nhiều loài động vật biển có giá trị kinh tế
và khoa học cũng đang bị các tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm thu hẹp diện
tích. Việc khai thác san hô làm đồ Hoa Kỳ nghệ xuất khẩu, nguyên liệu nung vôi
cho xây dựng... cũng như sự gia tăng lượng trầm tích từ các sông lục địa đã là
những nguyên nhân gây suy giảm nơi cư trú đặc biệt này.
Di
nhập các loài ngoại lai
Trong
thời gian qua, việc trao đổi, di nhập một số giống loài cây con đã mang lại
hiệu quả kinh tế. Trong cơ cấu cây trồng, nhiều giống mới đưa vào đã chiếm
70-80% và cho năng xuất cao (Nguyễn Đăng Khôi, 1995). Cho đến nay, đã có 114
loài thuỷ sinh vật ngoại lai được di nhập vào Việt Nam (Phạm Anh Tuấn, 2002).
Trong đó, có 17 loài cá nước ngọt, 10 loài cá nước lợ mặn, 40 loài cá cảnh, 3
loài tôm nước ngọt, 5 loài tôm và giáp xác biển, 4 loài lưỡng cư, 4 loài thân
mềm, 14 loài tảo nước ngọt, 15 loài tảo nước mặn. Việc di nhập các loài trên
đều có các mục đích khác nhau như nuôi trồng thuỷ sản, làm cảnh, cải tạo
giống.... Nhìn chung, việc làm này đã làm tăng sản lượng cá nuôi của Việt Nam
đáng kể. Tuy nhiên, có một số vấn đề tiêu cực đến bảo tồn quỹ gen bản địa phải
lưu ý như sau:
Xảy
ra hiện tượng tạp giao dẫn đến không có quần thể bản địa thuần chủng như trước
(cá mè trắng Trung Quốc H. molitrix với cá mè trắng Việt Nam H. harmandii hoặc
giữa cá trê phi C. garriepinus với các loài cá trê bản địa C. batrachus, C.
macrocephalus, C. fuscus).
Di
nhập các loài cá dễ kèm theo việc di nhập một số mầm bệnh bản xứ (ký sinh trùng
gây bệnh) mà trước đây không thấy có. Gần đây, loài tôm he chân trắng (S.
vandamei) được nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam để nuôi ở các vùng ven biển.
Bênh cạnh có được một đối tượng nuôi mới có giá trị thực phẩm xuất khẩu nhưng
qua một số vụ nuôi, đã thấy có một số biểu hiện dịch bệnh của loài tôm he chân
trắng này. Hoặc việc di nhập nuôi loài cá Chim trắng nước ngọt (một loài cá khá
dữ) cũng có những vấn đề bất cập. Bộ Thủy sản đã ra các thông tư hạn chế và
kiểm soát việc nuôi tôm he chân trắng và cá chim trắng ở Việt Nam.
Việc
di nhập nhiều giống mới một cách tràn lan có thể là nguy cơ tiềm tàng làm các
giống bản địa bị mai một. Tác hại ngay lập tức có thể thấy do một số trường hợp
phát triển tự phát, nhiều loài sinh vật đưa vào nước ta bằng nhiều con đường
không qua kiểm dịch, thiếu hiểu biết và chưa có thử nghiệm khoa học nên một số
loài như ốc bươu vàng (Pomacea spp.) từ khi được di nhập vào Việt Nam đã phát
triển thành nạn dịch phá hoại lúa nghiêm trọng.
Tại
vùng Đồng Tháp Mười và vườn Quốc gia U Minh Thượng, các loài thực vật hoang dại
đã được di nhập vào đây như cây Trinh nữ (Mimosa sp.), cây Mai dương (Mimosa
figo), cây dây leo (Centrosoma pubescen) thuộc họ Fabaceae; cỏ Lông tây
(Brachiara mutica) thuộc họ Poaceae, cây leo Mikunia microcantha thuộc họ
Asleraceae...Các loài cây hoang dại này có khả năng lan truyền và đã rất phát
triển, lấn át các loài thực vật bản địa khu vực này.
Trong
thực tế, không một Quốc Gia nào tự túc được hoàn toàn nguồn gen tài nguyên sinh
vật cần thiết. Vì vậy, cần có trao đổi vật liệu di truyền giữa các Quốc Gia và
các vùng. Mặt khác, di nhập loài ngoại lai cũng như sử dụng chúng là vấn đề
phức tạp, có thể gây ảnh hưởng đến tập đoàn cây, con bản địa và môi trường. Bởi
vậy, bên cạnh các quy định có tính chất pháp lý bắt buộc trong công tác kiểm
dịch động, thực vật thì các ngành có trách nhiệm như Bộ Thuỷ sản, Bộ Nông
nghiệp & Phát triển Nông thôn cần ban hành quy trình khảo nghiệm, đánh giá
các giống loài nhập nội trước khi đưa ra sản xuất rộng rãi.
b.
Nguyên nhân sâu xa về kinh tế, xã hội và chính sách
Tăng
trưởng dân số
Việt
Nam có hơn 76,3 triệu người (1999), mức tăng dân số 1,8%/năm. Ở Việt Nam, tăng
dân số nhanh là một trong những nguyên nhân làm suy thoái ĐDSH. Sự gia tăng dân
số đòi hỏi gia tăng nhu cầu sinh hoạt: lương thực, thực phẩm và các nhu cầu
thiết yếu khác trong khi lượng tài nguyên thì hạn hẹp, nhất là tài nguyên đất
cho sản xuất nông nghiệp. Hệ quả tất yếu dẫn tới phải mở rộng đất nông nghiệp
vào đất rừng, thu hẹp diện tích nơi sinh cư của động vật hoang dã, gây suy
thoái ĐDSH.
Dân
số Việt Nam phân bố không đều. Khoảng 77% dân số sống ở vùng nông thôn và miền
núi. Tỷ lệ tăng dân số ở vùng núi (vùng có mức ĐDSH cao) cao hơn ở vùng đồng
bằng. Ví dụ trong khu vực BTTN Nà Hang (Tuyên Quang, tỷ lệ tăng dân số
2,8-3,5%/năm, ở khu vực Ba Bể, tỷ lệ tăng dân số còn cao hơn 3,5-5%/năm.
Dân
số vùng núi và vùng ven biển tăng nhanh nhất định sẽ gây áp lực dẫn tới khai
thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, trong đó có tài nguyên rừng, tài nguyên
thủy sản, gây tác động tiêu cực tới môi trường và các HST.
Sự
di dân
Ở
miền Bắc, từ năm 1960, chính phủ động viên khoảng 1 triệu người từ vùng đồng
bằng lên khai hoang và sinh sống ở vùng núi. Cuộc vận động này đã làm thay đổi
hẳng sự cân bằng dân số ở vùng núi phía bắc.
Sau
năm 1975, chính sách phân bố lại dân cư vào khai hoang những vùng đất ít người
ở miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Đặc biệt từ những năm 1990, nhiều đợt di cư
tự do từ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ kể cả động đồng bản làng người
dân tộc ở vùng núi phía Bắc vào các tỉnh phía Nam, tập trung nhiều ở vùng Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ. Kết quả của các cuộc di cư có tổ chức theo kế hoạch và
di cư tự do đã làm tăng đáng kể dân số ở các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và lẽ
dĩ nhiên đã gây ảnh hưởng rõ rệt đến tài nguyên rừng và ĐDSH ở các vùng này,
nơi vốn có tài nguyên đất đai thuận lợi cho hệ sinh vật tự nhiên phát
triển.
Sự
nghèo đói
Việt
Nam là một quốc gia còn nghèo, cuộc sống còn phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp và
tài nguyên. Mức nghèo đói nhất ở các vùng núi phía Bắc và cao nguyên Trung Bộ
đồng thời cũng lànơi có mức ĐDSH cao nhất.
Trong
các khu bảo tồn được nghiên cứu, 90% dân địa phương sống dựa vào nông nghiệp và
khai thác rừng. Hầu hết đang thiếu đất trồng trọt, mức sống gia đình thấp, trên
50% gia đình thuộc diện đói nghèo. Như một quy luật, những người nghèo thường
không có ruộng đất hoặc ở vùng đất xấu. Người nghèo không có vốn để đầu tư, sản
xuất và bảo vệ tài nguyên. Họ buộc phải khai thác tài nguyên sinh vật hoang dã
để sinh sống làm cho tài nguyên này càng suy thoái một cách nhanh chóng.
Chính
sách kinh tế vĩ mô
Lịch
sử phát triển của nền kinh tế vĩ mô ở Việt Nam có thể chia thành hai giai đoạn
chính: giai đoạn trước khi đổi mới và giai đoạn đổi mới
-
Giai đoạn trước đổi mới. Cho tới năm 1975, nền kinh tế của Việt Nam về cơ bản
vẫn còn là nền kinh tế thời chiến. Các nhu cầu cấp thiết của chiến tranh được
đáp ứng kể cả việc khai thác không hạn chếtài nguyên thiên nhiên trong đó có
rừng. Sau năm 1975, tuy hòa bình được lập lại, đất nước thống nhất nhưng nền
kinh tế vẫn còn vô vàn khó khăn và đầu những năm 1980 đã bị suy thoái trầm
trọng. Trong thời gian này, gỗ được khai thác mạnh cho nhu cầu sử dụng và xuất
khẩu.
-
Giai đoạn đổi mới. Không ai nghi ngờ rằng đổi mới đã đem lại một bộ mặt hoàn
toàn mới cho nền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây về
môi trường đã cho thấy có sự suy thoái về đất đai và HST rừng. Chính sách đẩy
mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông-lâm nghiệp có giá trị cao đã là một trong
những nguyên nhân giảm ĐDSH từ năm 1986. Lợi nhuận kinh tế đã kích thích các
thành phần kinh tế tự do chuyển đổi phương thức canh tác sử dụng đất đai, ĐNN
cho các mục tiêu khác nhau. Kết quả là diện tích những khu rừng tự nhiên bị thu
hẹp.
Chủ
trương khai thác xuất khẩu gỗ tròn được đẩy mạnh ngay từ thời kỳ đổi mới. Đến
năm 1990, giá trị xuất khẩu gỗ tròn đã đạt tới 126,5 triệu USD. Giai đoạn này
cũng là thời điểm tỷ lệ diện tích rừng che phủ xuống tới mức thấp nhất. Việc
săn bắn, xuất khẩu trái phép động vật hoang dã càng phát triển kẻ từ năm 1990
khi biên giới phía Bắc được mở lại. (biodivn.blogspot.com).
Tài liệu tham khảo: Đa dạng Sinh
học và Bảo tồn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2005.