Vườn Quốc gia Hoàng Liên tổ chức nghiệm thu đề tài khoa học công nghệ cấp cơ sở
Sáng ngày 11/6/2017, Vườn Quốc gia
Hoàng Liên đã tổ chức Họp Hội đồng đánh giá, nghiệm thu đề tài khoa học công
nghệ cấp cơ sở thuộc đề tài “Khai thác và phát triển
nguồn gen cây Tam thất hoang (Panax stipulealatus Tsai & K.m. Feng)
và Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis DC) làm nguyên liệu sản xuất thuốc”. Tham gia Hội đồng có 9 thành viên đến từ Trường Đại học Lâm nghiệp, Viện
Dược liệu, Học viện Nông Nghiệp và VQG Hoàng Liên do TS. Nguyễn Văn Việt – Phó
viện trưởng Viện CNSH Trường ĐH Lâm nghiệp làm chủ tịch hội đồng. Tham gia báo
cáo có Đồng chí Nguyễn Quang Vĩnh GĐ VQG Hoàn Liên, chủ nhiệm thực hiện đề tài
và nhóm viên chức Phòng Khoa học và hợp tác quốc tế trực tiếp thực hiện Đề tài.
TS. Nguyễn Văn Việt – Phó viện trưởng Viện CNSH Trường ĐH Lâm nghiệp, Chủ tịch hội đồng.
Đề tài ”Khai thác và phát triển nguồn gen cây Tam
thất hoang và Hoàng liên ô rô làm nguyên
liệu sản xuất thuốc” được VQG Hoàng Liên ký hợp đồng với
Bộ Khoa Học & Công Nghệ, thực hiện
trong thời gian từ tháng 01/2013 đến tháng 6/2017. Tổng kinh
phí thực hiện Hai tỷ chín trăm năm mươi triệu đồng.
Đồng chí Nguyễn Quang Vĩnh GĐ VQG Hoàn Liên, chủ nhiệm thực hiện đề tài báo cáo
Với 04 mục tiêu chính là: Xác định giá trị sử dụng,
đặc điểm sinh học và sinh thái học của hai loài Tam thất hoang và hoàng liên ô
rô, làm cơ sở cho việc khai thác và phát triển nguồn gen; Xây dựng các quy
trình kỹ thuật chọn và nhân giống, trồng, thu hoạch, sơ chế và bảo quản dược liệu
của hai loài; Xây dựng tiêu chuẩn cơ sở của hai loại giống và của hai loại dược
liệu; Xây dựng vườn giống gốc (0,2 ha/loài), vườn nhân giống (0,3 ha đối với
tam thất hoang, 0,5 ha đối với Hoàng liên ô rô) và vườn sản xuất cây dược liệu
của hai loài (1 ha Tam thất hoang, 3 ha Hoàng liên ô rô).
Cây Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis DC.) và Tam thất hoang (Panax stipuleanatus H.T. Tsai et K.M. Feng)
được biết đến như một loài cây dược liệu quý. Hoàng Liên ô rô là loài cây dạng
bụi cao đến 4m, thân, cành và rễ có chứa hàm lượng Berberin cao. Với tên “Thập đại công lao", Hoàng liên ô rô
thường được sử dụng chữa đau bụng, rối loạn tiêu hoá, ỉa chảy, kiết lỵ; và theo
kinh nghiệm của người dân ở Sa Pa loài cây này còn được dùng làm thuốc bổ đắng
có tác dụng chữa xương khớp. Hoàng liên ô rô đang trở thành nguồn nguyên liệu
thay thế quan trọng để sản xuất Berberin. Gỗ của thân và rễ có màu vàng nhạt,
vị rất đắng như mật gấu, vì vậy mà có tên
gọi khác là “cây Mật gấu”. Trong cây có các alcoloid nhóm benzyl
isoquinolein gồm: berberin, berbamin, oxyacanthin, isotetrandin, palmatin và
jatrorrhizin… Rễ còn chứa umbellatin (0,48%) và neprotin. Quả cũng có berberin
và jatrorrhizin. Theo Đông y, Hoàng liên ô rô có vị đắng, tính mát, vào 4 kinh
phế, vị, can, thận; có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm làm se. Tác
dụng trị bệnh của cây Hoàng liên đã được ghi lại trong bộ sách Thần nông bản
thảo như một loại thuốc được xếp vào hàng “thượng phẩm”, nghĩa là vị thuốc
không độc, có thể dùng lâu dài để bổ dưỡng.
Quang cảnh buổi họp
Tam thất hoang là cây thân thảo, sau khi
trồng từ năm thứ 3 trở đi cây bắt đầu cho thu hoạch củ, nhưng để củ Tam thất có
chất lượng tốt thì phải thu hoạch sau trồng từ 6 đến 7 năm. Loại cây này được mệnh danh là "Kim bất
hoán" có nghĩa là vàng không đổi được. Hiện nay, Tam thất hoang được dùng
để chữa bệnh trong đông y và có nhiều công dụng cho sức khỏe của con người.
Trong y học cổ truyền, các bộ phận của cây Tam thất hoang đều được dùng làm thuốc.
Rễ củ Tam thất hoang vị đắng ngọt, tính ấm vào 2 kinh can và
vị. Có tác dụng bổ huyết, cầm máu, giảm đau, tiêu ứ
huyết. Theo Dược điển Việt Nam, Tam thất dùng trị thổ huyết, băng huyết, rong
kinh, sau khi đẻ huyết hôi không ra, ứ trệ đau bụng, kiết lỵ ra máu, lưu huyết,
tan ứ huyết, sưng tấy, thiếu máu nặng, người mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, nhức
đầu, ít ngủ.
Sản phẩm của đề tài
Trong những năm gần đây vùng phân bố tự nhiên của 2 loài
trên đã bị thu hẹp nghiêm trọng, do hậu quả của việc suy giảm diện tích rừng tự
nhiên và khai thác lâm sản ngoài gỗ trái phép. Những cá thể còn lại rất ít và hầu
hết là những cây nhỏ. Cả hai loài đều được xếp trong Sách đỏ Việt Nam thuộc cấp
có nguy cơ bị tuyệt chủng cực kỳ cao ngoài tự nhiên. Do đó, Tam thất hoang và
Hoàng liên ô rô là cây thuốc có nguồn gen quý cần được ưu tiên bảo tồn khẩn cấp
ở Việt Nam hiện nay. Ngoài giá trị nguồn gen thì cả hai loài này đều có giá trị
lớn về mặt y học, đều là những cây dược liệu quý, có giá trị cao, có nhiều tính
năng chữa bệnh.
Sau 3 năm rưỡi triển khai thực hiện, Đề tài đã đạt
được kết quả rất khả quan:
- Đã đánh giá bổ sung đặc điểm nông sinh học và
giá trị sử dụng của hai nguồn gen, xây dựng tiêu chuẩn cây giống gốc của Tam thất
hoang và Hoàng liên Ô rô. Trong đó Hàm lượng hoạt chất chính cây Tam thất hoang
là Saponin: 3,37 – 10,7%; Hàm lượng hoạt chất chính cây Hoàng liên Ô rô là
Berberin clorid: từ 0,16 – 0,72%.
- Thu thập bổ sung nguồn gen đạt tiêu chuẩn cây
giống gốc và xây dựng vườn giống gốc của Tam thất hoang và Hoàng liên Ô rô.
Trong đó đã xây dựng được Vườn giống gốc Tam thất hoang với diện tích 0,2 ha,
lưu giữ trên 300 cây giống gốc và Vườn giống gốc Hoàng liên Ô rô với diện tích
0,2 ha, lưu giữ trên 300 cây giống gốc.
- Nghiên cứu xây dựng quy trình nhân giống, tiêu
chuẩn cơ sở cây giống và xây dựng vườn nhân giống Tam thất hoang và Hoàng liên
Ô rô. Trong đó đã xây dựng vườn nhân giống Tam thất hoang với diện tích 0,3ha,
cung cấp 5000 cây giống/năm và vườn nhân giống Hoàng liên Ô rô với diện tích
0,5ha, cung cấp 10.000 cây giống/năm.
- Nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật trồng trọt,
chăm sóc, thu hoạch, sơ chế bảo quản dược liệu và xây dựng tiêu chuẩn dược liệu
Tam thất hoang và Hoàng liên Ô rô. Trong đó Vườn sản xuất Tam thất hoang với diện
tích 1,0 ha, tại Bản Khoang, TT Sa Pa và Vườn sản xuất Hoàng liên Ô rô với diện
tích 3,0 ha, tại TT Cứu hộ - VQG Hoàng Liên.
Cũng tại Hội đồng, đồng chí Nguyễn Quang Vĩnh –
Giám đốc VQG Hoàng Liên kiến nghị Hội đồng về việc giữ lại các sản phẩm của đề
tài để tiếp tục nghiên cứu, do cây trồng mới ở độ tuổi 3 còn chưa đạt về sinh
khối cũng như hàm lượng các hoạt chất./.
Nguyễn Năm