1. Hoàn cảnh ra đời
- Năm 1965, nhân dịp sinh nhật lần thứ 75, vào lúc 9
giờ sáng ngày 10/5/1965 Bác viết bản Di chúc với tiêu đề "Tuyệt
đối bí mật" gồm ba trang, do chính Bác đánh máy, ở cuối đề ngày 15/5/1965.
Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh có chữ ký của Bác và bên cạnh có
chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
- Các năm 1966, 1967, Bác không có những bản viết riêng.
- Năm 1968, Bác viết bổ sung thêm một số đoạn, gồm sáu
trang viết tay. Trong đó, Bác viết lại đoạn mở đầu và đoạn nói "về việc
riêng" đã viết trong bản năm 1965, và viết thêm một số đoạn. Đó là những
đoạn nói về những công việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, như: chỉnh đốn lại Đảng, quan tâm gia đình
liệt sĩ, thương bệnh binh, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân, miễn
thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng lại thành phố
và làng mạc, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, củng cố quốc phòng,
chuẩn bị thống nhất đất nước.
- Ngày 10/5/1969, Bác viết lại toàn bộ đoạn mở đầu Di
chúc, gồm một trang viết tay. Sau đó, trong các ngày từ 11 đến ngày
19/5/1969, Bác còn tiếp tục sửa chữa bản Di chúc của các năm 1965, 1968, 1969.
Đúng 10 giờ ngày 19/5/1969, là kỷ niệm ngày sinh lần thứ 79 của Bác, Bác đọc
lại lần cuối cùng tất cả các bản Di chúc đã viết trước đó, rồi xếp tất cả bỏ
vào phong bì và cất đi…
- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên
được công bố trong Lễ tang của Người tháng 9/1969, gồm 4 trang in khổ 14,5 cm x
22 cm. Ngày 19/8/1989, Bộ Chính trị ra Thông báo số 151-TB/TW Về một
số vấn đề liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định Di chúc công bố chính thức năm 1969 đảm bảo trung thành với bản gốc của
Người. Nội dung chủ yếu dựa theo bản Bác viết năm 1965, trong đó đoạn mở đầu là
của bản viết năm 1969, đoạn về việc riêng là của bản viết năm 1968. Lúc đầu, vì
những lý do nhất định, nên một số vấn đề trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
chưa được công bố, như: Việc căn dặn của Người về hoả táng thi hài; việc cần
làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi; miễn giảm thuế nông
nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp... Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày
sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI)
đã quyết định công bố toàn bộ các bản viết Di chúc của Người.
2. Nội dung cốt lõi của Di chúc
- Trước hết nói về Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định truyền thống đoàn kết chặt chẽ trong
Đảng và “cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình”;
Người yêu cầu “trong Đảng thực hành dân chủ rộng
rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” để củng cố và phát
triển đoàn kết và thống nhất trong Đảng. Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng; giữ gìn Đảng ta thật trong sạch.
- Nói về đoàn viên và thanh niên, Bác
nhấn mạnh, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng
và rất cần thiết”. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ -
những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
- Nói về nhân dân lao động, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng, nhân
dân lao động bao đời chịu đựng gian khổ, bị nhiều áp bức bóc lột của phong
kiến, thực dân; nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù, luôn đi
theo và rất trung thành với Đảng. Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
- Dự báo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể
kéo dài nhưng nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh
căn dặn, sau khi kháng chiến thắng lợi, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh,
phát triển đất nước; Đảng và Nhà nước phải quan tâm chăm lo tới mọi đối tượng
trong xã hội, đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
- Về phong trào cộng sản thế giới, Người bày tỏ sự đau lòng vì
sự bất hòa của các đảng anh em. Chủ tịch Hồ Chí Minhmong rằng Đảng ta sẽ ra sức
hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng
anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản có lý, có
tình.
- Nói về một số việc riêng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ tiếc rằng không được phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Ngườicăn dặn “Sau khi tôi đã
qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền
bạc của nhân dân”.
- Mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trước lúc đi xa là toàn
Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng
thế giới.
3. Giá trị cốt lõi của Di chúc
a. Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm
tin, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp
cách mạng
Di chúc là Tâm nguyện của
Người: “Suốt đời tôi hết lòng phụng vụ Tổ quốc, phụng vụ cách mạng, phục vụ
nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận,
chỉ tiếc là tiếc rằng không được phụng vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Ý
chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với nhân
dân của Người thể hiện sâu sắc ở dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ và ngày thống nhất đất nước, ở những chỉ dẫn về công việc của sự nghiệp cách
mạng còn dang dở. Di chúc là tâm sự của một người đã
suốt đời hy sinh hạnh phúc riêng tư, hiến dâng trọn cuộc đời cho Tổ quốc và
nhân dân; là tấm lòng chung thuỷ với “các nước anh em” và “bầu bạn khắp năm
châu”.
b. Di chúc là công trình lý luận về xây dựng và
củng cố Đảng cầm quyền
- Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
“Đảng ta là Đảng cầm quyền”. Để đáp ứng được nhiệm vụ lãnh
đạo xã hội, Đảng phải luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và gắn bó
máu thịt với nhân dân, không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân, lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của mình. Di chúc nêu những vấn đề cốt yếu của công tác
xây dựng Đảng, đó là: Giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng,
nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng
viên. Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên
để giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.
- Sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp bền bỉ,
dài lâu, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đảng cầm quyền phải chăm lo
phát triển lực lượng cho hiện tại và chuẩn bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa
“hồng” vừa “chuyên”, có như vậy mới thực hiện thành công lý tưởng xây dựng một
xã hội mới, tiến bộ, văn minh. Bác dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”, đó là
công việc bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức
rèn luyện đạo đức cách mạng, đào tạo nguồn nhân lực kế tục sự nghiệp xây dựng
xã hội chủ nghĩa.
- Cách mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng
thế giới. Sự vững mạnh của Đảng còn được khẳng định trong mối quan hệ đoàn kết
chặt chẽ với các đảng cộng sản và bè bạn quốc tế. Điều Bác dặn trong Di chúc
“về phong trào cộng sản thế giới” chỉ dẫn định hướng quan trọng cho quan hệ đối
ngoại của Đảng, đó là nguyên tắc đoàn kết quốc tế dựa trên “nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”.
c. Di chúc là tác phẩm bàn về xây dựng xã hội
XHCN ở Việt Nam, là phác thảo lý luận sự nghiệp đổi mới ở nước ta
- Di chúc là điểm kết tinh tư
tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng chủ nghĩa Mác -
Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, mối quan hệ giữa công bằng và tiến bộ xã hội, mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá trong xây dựng xã hội
mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại, động lực lợi ích và
chăm lo chu đáo tới cuộc sống con người, tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc, là
chủ thể của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
- Di chúc như một kế hoạch, một chương trình hành
động của toàn Đảng, toàn dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với
những chỉ dẫn về quản lý xã hội như: đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội; sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp hoàn cảnh mới; khôi
phục và mở rộng các ngành kinh tế; phát triển công tác vệ sinh, y tế; chính
sách miễn thuế nông nghiệp cho nông dân; chính sách xã hội, công bằng xã hội...
- Giá trị văn hoá của Di chúc chỉ dẫn con đường,
mục tiêu phát triển của nền văn hoá Việt Nam; trù tính, dự liệu về những cuộc
vận động lớn giáo dục văn hoá trong toàn dân, toàn xã hội, lấy văn hoá chính
trị của Đảng Cộng sản cầm quyền và văn hoá trong thể chế nhà nước - một nhà
nước dân chủ pháp quyền của dân, do dân, vì dân làm sức mạnh tiêu biểu nêu
gương thuyết phục nhân dân. Qua lời dặn dò về việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn hoá mới; một lối sống tiết kiệm,
không lãng phí; mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, môi trường sinh
thái.
- Di chúc phác thảo những vấn đề quan trọng của
sự nghiệp đổi mới đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đổi mới là một tất
yếu để phát triển; đổi mới là một cuộc đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng
gian khổ, "là một công việc cực kỳ to lớn, nặng nề và phức tạp”, là “cuộc
chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt
tươi”. Người yêu cầu, Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát
triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
- Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong hoàn cảnh, điều kiện nước ta phải đặc biệt chú trọng phát huy khả năng
sáng tạo của dân, “động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân,
dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.
II. NHỮNG THÀNH TỰU TRONG 50 NĂM THỰC HIỆN DI
CHÚC
1. Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Thực hiện Di chúc của Người, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quân và dân cả nước đã đứng lên, sức mạnh của cả dân tộc được huy động
cao độ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử,
quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; chấm dứt ách thống trị tàn bạo
hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta, mở ra thời kỳ mới
- thời kỳ độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, thực hiện Di chúc của Người, Đảng đã tập trung sức lực và trí tuệ lãnh
đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc cách mạng đưa cả nước đi theo con đường mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Mặc dù tình hình thế giới và trong nước có nhiều
biến động phức tạp, vừa phải thường xuyên đối phó với những âm mưu chống phá
của các thế lực thù địch, phản động, vừa phải xây dựng cuộc sống mới từ một nền
kinh tế lạc hậu, bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, vừa phải làm nghĩa vụ
quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã phấn đấu gian khổ và thu
được những kết quả hết sức quan trọng là khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh;
xây dựng một số cơ sở vật chất; phát triển được một số ngành kinh tế quan
trọng; thiết lập và củng cố chính quyền nhân dân trên phạm vi cả nước; phát
triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế. Đồng thời tiến hành thắng lợi trong
hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới của Tổ quốc.
2. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, bước đầu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đem lại
phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân
Thực hiện Di chúc của Người,
trải qua 9 kỳ Đại hội Đảng, kể từ Đại hội IV đến Đại hội XII, Đảng ta đã ngày
càng xác định rõ hơn những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, Đảng ta luôn coi phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, đồng
thời ra sức xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa
là động lực của phát triển kinh tế - xã hội.
Công cuộc đổi mới đất nước sau hơn 30 năm đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sửtrên con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập
trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an
ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và
đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy
và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Sức
mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại
ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để
nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát
triển của lịch sử.
3. Xây dựng Đảng thực sự đoàn kết, trong sạch,
vững mạnh, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
trong Đảng và trong toàn xã hội
Để thực hiện những điều căn dặn về xây dựng Đảng
của Bác viết trong Di chúc, Đảng ta đã xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt trong mỗi giai đoạn cách mạng. Đảng ta luôn luôn ý thức tầm quan trọng của
công tác xây dựng Đảng nhằm tăng cường sức mạnh và tính chiến đấu của Đảng, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc đẩy mạnh công tác
xây dựng Đảng đã được đặt ra trong nhiều nghị quyết của Đảng, từ nghị quyết của
các Đại hội đại biểu toàn quốc đến nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và
Bộ Chính trị, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII (tháng
2/1999) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (tháng 01/2012)
về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
Các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về công
tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng đã đề ra những chủ trương và biện pháp quan
trọng về xây dựng Đảng, củng cố, kiện toàn và làm trong sạch bộ máy nhà nước,
đẩy mạnh công tác tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng, củng cố sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; khắc phục những yếu kém trong bộ máy các tổ chức của Đảng và Nhà
nước. Dân chủ trong Đảng và trong xã hội được mở rộng góp phần thúc đẩy kinh
tế, văn hóa và xã hội phát triển. Qua các đợt vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, công tác phê bình và tự phê bình trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở đã có
những chuyển biến nhất định, sức mạnh và tính chiến đấu của nhiều tổ chức đảng
và đảng viên được nâng lên.
Cùng với kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta luôn khẳng định lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động và đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục
trong Đảng và trong toàn xã hội để chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
trở thành tư tưởng chính trị chủ đạo trong đời sống của đất nước, tiến hành
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với xây dựng, củng cố bộ máy hệ
thống chính trị tinh gọn, chất lượng, hiệu quả chính là hành động thiết thực
làm theo Di chúc của Bác, xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng
cao sức mạnh chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, làm cho uy tín của Đảng ta
ngày càng cao và mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân ngày càng được tăng cường.
4. Quan tâm chăm lo, xây dựng đào tạo bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau
Đảng luôn chú ý đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ
làm nguồn kế tục sự nghiệp cách mạng của thế hệ cha anh. Đảng cũng có nhiều
nghị quyết, chỉ thị về công tác thanh niên. Các nghị quyết về giáo dục, đào
tạo, về khoa học và công nghệ... đều đề cập nhiệm vụ giáo dục, chăm lo thế hệ
trẻ, coi thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Những năm qua, công tác lãnh đạo đối với hoạt động thanh niên và tuổi
trẻ có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực. Các hoạt động của Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên Việt Nam ngày càng lôi cuốn nhiều đoàn
viên, thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia.
Những tấm gương, điển hình tiên tiến, xung kích,
đi đầu trong chiến đấu, lao động, học tập và công tác, nhất là trong sự nghiệp
đổi mới và hội nhập quốc tế đã tiếp tục khẳng định vị thế và vai trò quan trọng
của thế hệ trẻ. Trên cơ sở quán triệt quan điểm “xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng
trước một bước”, các tổ chức cơ sở Đoàn đã phát huy vai trò xung kích, sáng tạo
của đoàn viên, thanh niên, sinh viên trong thi đua thực hiện các nghị quyết của
Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Thông qua đó, tạo môi trường thuận lợi để thế hệ trẻ trải nghiệm, tự rèn luyện
mình, trưởng thành, phấn đấu, bổ sung lực lượng trẻ cho Ðảng, kế tục sự nghiệp
cách mạng vẻ vang của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
5. Xây dựng tinh thần quốc tế vô sản chân chính,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế đất nước trong
hội nhập quốc tế
Đảng ta do Hồ Chủ tịch sáng lập và rèn luyện,
ngay từ khi ra đời đã giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa quốc tế vô sản, đề ra
nhiệm vụ đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới, với các dân tộc bị áp bức, coi
đó là một nguyên tắc, một trong những nhân tố quyết định thành công của cách
mạng nước ta.
Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, Đảng xác
định củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời nắm vững
phương châm ngoại giao linh hoạt, có nguyên tắc trên tinh thần Việt Nam muốn là
bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa
bình, hợp tác và phát triển; Nhất quán coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới, tiếp tục đoàn kết, ủng hộ các phong trào cách mạng, các
xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại vì các mục tiêu hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Nêu cao nguyên tắc độc lập, tự chủ, tự lực tự
cường, phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ và tận dụng sự
đồng tình, ủng hộ rộng rãi của các lực lượng bên ngoài.
Thực thi đường lối đối ngoại đúng đắn theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong những năm gần đây, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp
phần nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đến nay, Việt
Nam có quan hệ ngoại giao với 188/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, là
thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực; thiết lập quan hệ
đối tác chiến lược với 16 nước, đối tác toàn diện với 11 nước… Việt Nam cũng là
thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính
phủ trên thế giới. Việt Nam đã tham gia và hoạt động tích cực với vai trò ngày
càng được khẳng định tại các tổ chức của Liên hợp quốc, được bầu làm ủy viên
không thường trực Hội đồng bảo an nhiệm kỳ 2008-2009, thành viên Hội đồng Nhân
quyền, nhiệm kỳ 2014-2016; là thành viên tích cực của các tổ chức quốc tế và
khu vực: Phong trào không liên kết, WTO, ASEAN, APEC...
III. BÀI HỌC QUA 50 NĂM THỰC HIỆN DI CHÚC
1. Bài học về tinh thần lạc quan và bản lĩnh khoa
học cách mạng của Đảng
Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết
trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đang trong
giai đoạn ác liệt. Niềm tin sâu sắc về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước “nhất
định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn” trong bản Di chúc
của Bác đã truyền ngọn lửa niềm tin vào mỗi con người và tạo nên sức mạnh to
lớn - sức mạnh của niềm tin, của ý chí cách mạng của toàn dân tộc Việt Nam tạo
nên Đại thắng Mùa xuân 1975 lịch sử. Trong những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ
XX, chúng ta phải đối mặt với những yếu kém, bất cập của cơ chế hành chính quan
liêu bao cấp, nền kinh tế rời vào khủng hoảng trầm trọng. Chính trong hoàn cảnh
đó, Đảng ta lại chứng tỏ bản lĩnh khoa học và cách mạng của mình bằng việc khởi
xướng, tổ chức và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước. Tại Đại hội IV, Đảng ta
đã “nhìn thẳng vào sự thật”, thực hiện tự phê bình và phê bình, nghiêm túc rút
ra những bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam: “lấy dân làm gốc”, “tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan”, “đoàn kết toàn dân” phát huy sức mạnh
tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Bài học về sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng
Trong Di chúc, Bác khẳng định “Đoàn kết
là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”. Việc giữ gìn sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng là nhân tố quyết định sự thành công trong mọi
nhiệm vụ, “tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Nhờ đoàn kết, Đảng ta đã
lãnh đạo nhân dân làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập ra nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, nhờ đoàn kết, thống nhất chúng ta đã đánh thắng thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, giành độc lập, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhờ đoàn
kết, thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân, đất nước ta thực hiện công cuộc đổi
mới thành công, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng
càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là
Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống
nhất, “giữ gìn sự đoàn kết và nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình”. Đoàn kết của Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là
nhân tố quyết định bảo đảm đại đoàn kết dân tộc.
3. Bài học về thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình
Để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất của Đảng
theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta phải thực hành dân chủ thực sự.
Nhờ dân chủ, Đảng ta đã khơi dậy, phát huy cao nhất trí tuệ, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Nhờ dân chủ, trong Đảng đã khắc phục dần
tình trạng bè cánh, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, quan liêu, hách dịch cửa
quyền, xa rời quần chúng. Thực hành dân chủ rộng rãi nghĩa là phải dân chủ thực
sự, dân chủ thường xuyên, dân chủ từ trung ương đến cơ sở. Nhưng, dân chủ
phải gắn với tập trung. Tập trung dân chủ là nguyên tắc sống còn và cũng là
biện pháp tốt nhất để xây dựng Đảng ta. Kiên quyết đấu tranh chống lại những
biểu hiện trong thực hành dân chủ hình thức. Lợi dụng dân chủ để truyền bá
những quan điểm, tư tưởng cá nhân, xâm hại đến lợi ích chung, gây mất đoàn
kết trong Đảng, trong xã hội.
Thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
bình. Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc, là quy luật phát triển của Đảng.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh coi đây là biện pháp tốt nhất để củng cố, phát triển
sự đoàn kết, thống nhất của Đảng. Người yêu cầu tự phê bình và phê bình phải
thường xuyên, nghiêm túc, không nể nang, qua loa đại khái, hình thức. Mục đích
của tự phê bình và phê bình là giúp cho bản thân và đồng đội ngày càng tiến bộ
hơn; tuyệt đối không vì mâu thuẫn cá nhân, động cơ cá nhân mà phê bình theo
kiểu “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm vết” nhằm trù dập, đấu đá, hạ bệ lẫn
nhau. Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là công việc thường xuyên;
ngừng tự phê bình và phê bình tức là ngừng tiến bộ, là thoái bộ.
4. Bài học về sự quan tâm đặc biệt sâu sắc tới
thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước
Đoàn viên, thanh niên là người kế tục sự nghiệp
cách mạng của Đảng. Những hạt giống tốt sẽ nảy nở, vươn cao những mầm xanh cho
đất nước, quê hương. Bác căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ
nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Công việc này “quan trọng” vì không
ai khác ngoài các thế hệ thanh niên sẽ kế tục sự nghiệp cách mạng. Công việc
này “cần thiết” vì tính cấp bách trước mắt cũng như sự nghiệp lâu dài; việc rèn
luyện đạo đức cách mạng, việc xây dựng một thế hệ cách mạng đòi hỏi phải có
thời gian của sự thử thách.
5. Bài học về chăm lo, không ngừng
nâng cao đời sống của nhân dân
Sự quan tâm tới nhân dân là bổn phận, trách nhiệm
của Đảng bởi lợi ích của Đảng không nằm ngoài lợi ích của dân tộc, của nhân
dân. Có như vậy, nhân dân mới có niềm tin vững chắc vào Đảng; một lòng một dạ
đi theo Đảng để cuộc sống càng ngày càng hoàn thiện hơn.
6. Bài học về tinh thần cống hiến cho lý tưởng
cách mạng
Khi nói về việc riêng trong bản Di chúc của mình,
Bác “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” cho
Tổ quốc, cho cách mạng và cho nhân dân. Bác nhấn mạnh từ “phục vụ” nhằm nói rõ
nhiệm vụ của người làm cách mạng là phải quên mình “phục vụ” Tổ quốc, nhân dân.
Người cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ”trung thành của nhân
dân, không đòi hỏi một quyền lợi riêng cho mình, cống hiến trọn đời cho nhân
dân, cho Tổ quốc.
IV. TIẾP TỤC THỰC HIỆN DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ
CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên
quyết ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đứclối sống trong
cán bộ, đảng viên
Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản
hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong gần 90 năm đã
qua, cả hôm nay và mai sau. Vì vậy phải thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, làm cho Đảng vững mạnh. Đảng có mạnh cách mạng mới thành công.
Thực hiện các Nghị quyết Trung ương, đặc biệt
là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng là việc làm vừa
cơ bản, cấp bách, vừa thường xuyên lâu dài, cần kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và
“chống”; lấy “xây” làm nhiệm vụ cơ bản, chiến lược lâu dài, lấy “chống” làm
nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, đột phá trên nguyên tắc giữ vững sự ổn định
chính trị để phát triển đất nước. Vừa đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng vừa tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị
quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế,
chính sách, nhất là cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức,
có quyền, bảo đảm quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; có chế tài xử lý nghiêm
minh những hành vi vi phạm; ngăn chặn, đấu tranh, xử lý triệt để, công khai,
đúng pháp luật các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm, tư tưởng cục bộ,
bè phái, chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy dự án,... Vừa tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng, vừa phát huy cao độ vai
trò giám sát, phản biện của các tổ chức chính trị - xã hội, của nhân dân ngay
từ khi xây dựng và trong quá trình thực thi chính sách, kịp thời phát hiện,
ngăn ngừa khi mới có dấu hiệu vi phạm. Trước mắt tập trung kiểm tra, xử lý dứt
điểm những vụ tham nhũng phức tạp, các vụ việc vi phạm trong thực thi quyền
lực, nhất là vi phạm trong công tác cán bộ đang gây bức xúc trong xã hội, bất
bình trong nhân dân.
2. Đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên
Cùng với việc tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản về trách nhiệm nêu gương, đặc biệt là
Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương Quy định
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị,
Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Nêu gương của cán bộ,
đảng viên là tỏ rõ sự biết ơn Bác, tự hào và nguyện làm theo Bác. Nêu gương về
lòng trung thành vô hạn với lý tưởng cách mạng, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân, hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao. Nêu gương về đạo đức, lối
sống trong sáng; về bản lĩnh, trách nhiệm, niềm tin. Nêu gương phải thực chất,
tránh hình thức, cố tạo ra hình ảnh, phải thật sự chân thực trong công việc,
cuộc sống của mỗi người lãnh đạo, bình dị, giản dị như cuộc đời của Bác.
3. Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân
Mục tiêu xây dựng nước ta trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại là một dấu mốc trong tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, mở ra những điều kiện mới, thuận lợi hơn cho việc tiếp
tục xây dựng, phát triển đất nước lên tầm cao mới, cải thiện đời sống nhân dân,
tăng cường thế và lực của đất nước. Để đạt được mục tiêu ấy, cần phải nhận thức
đầy đủ và vận dụng đúng các quy luật phát triển, huy động được các nguồn lực
của đất nước mà trước hết, quan trọng nhất là nguồn lực con người, phải có một
lộ trình kế hoạch để từng bước thực hiện.
Nhân dân là mục tiêu tối thượng, đồng thời là
động lực quyết định của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước của chúng
ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân làm chủ. Mọi
thành quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước đều vì hạnh phúc của nhân
dân, vì mục tiêu không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân. Mọi nhiệm vụ cách mạng đều do nhân dân thực hiện dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Đó là yêu cầu xuất phát từ bản chất của chế độ ta.
4. Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, rèn luyện
cán bộ, đáp ứng thực hiện nhiệm vụ cách mạng
Thực hiện di chúc của Người và để thực hiện tốt chiến lược
“trồng người”, nhằm bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau đạt hiệu quả; đảm
bảo xây dựng đội ngũ kế cận tài đức, hoàn thành tốt trọng trách mà Tổ quốc và
nhân dân giao phó, trong thời gian tới, các cấp ủy, chính quyền, ban, ngành
chức năng từ Trung ương đến địa phương cần tập trung quán triệt sâu sắc chủ
trương của Đảng, Nhà nước về vị trí, vai trò của thế hệ trẻ, về “đổi mới nội
dung, phương thức chính trị, tư tưởng, truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng, lòng
yêu nước, xây dựng đạo đức lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh
chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho cán bộ, đảng viên nhất là thế hệ trẻ… Phát
huy vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” theo
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý
tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, giai đoạn
2015-2030”. Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - Đoàn
Thanh niên - xã hội trong đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ toàn diện về mọi mặt;
trong đó, chú trọng nguyên tắc đào tạo gắn với bồi dưỡng, tin tưởng giao việc,
tạo điều kiện để tuổi trẻ được trải nghiệm, phấn đấu và trưởng thành; xây dựng
nguồn cán bộ trẻ, đảm bảo quy hoạch cho trước mắt và lâu dài, “phải khéo léo
kết hợp cán bộ già với cán bộ trẻ”, “không nên coi thường cán bộ trẻ” như Hồ
Chí Minh đã căn dặn.
5. Mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế
Việt Nam trong hội nhập quốc tế
Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề đoàn kết
quốc tế sẽ mở ra khả năng rộng lớn để vận dụng, thực hiện thắng lợi những nhiệm
vụ đối ngoại mà Đại hội Đảng lần thứ XII đề ra. Vì vậy, trong thời kỳ mới, Đảng
ta tiếp tục khẳng định phương châm và định hướng lớn của hoạt động đối ngoại là
“Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế”. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các
đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển và
an sinh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ động
tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và
Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng,
an ninh... Triển khai đồng bộ hoạt động đối ngoại, cả về chính trị, an ninh,
quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nâng cao chất lượng công tác tham mưu về
đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại, hội
nhập quốc tế, tạo đồng thuận trong nước và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc
tế đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước.
* * *
Kỷ niệm 50 năm ngày Bác đi xa, ôn lại
lời căn dặn của Người trong Di chúc, là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ
chức Đảng tự soi rọi lại mình; phấn đấu xây dựng Đảng ngày càng trong sạch,
vững mạnh lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân “xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” như di nguyện của Người./.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG