Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh với đại thắng mùa xuân 1975
Lượt xem: 13

  Nếu ở chiến thắng Điện Biên Phủ chúng ta đã dồn cho chiến dịch “ 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn” thì chiến dịch Hồ Chí Minh chúng ta đã đã thực hiện trong 55 ngày đêm tiến công và nổi dậy để có “ 30 năm dân chủ cộng hòa, kháng chiến đã thành công”. Chúng ta đã đập tan đội quân tay sai của Mĩ, đánh đổ chính quyền ngụy giải phóng hoàn toàn miền Nam; khép lại một giai đoạn lịch sử chia cắt đất nước ( nên nhớ trong lịch sử nước ta đã hai lần bị chia cắt: lần 1 vào thế kỷ XVI, Trịnh - Nguyễn phân tranh), mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: Độc lập, thống nhất, hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Chúng ta biết rằng, chúng là một nước nhỏ và nghèo, trong thời kỳ phong kiến Bắc thuộc ta đã từng dành nhiều chiến công lẫy lừng với nhiều kẻ thù hùng mạnh, đến nay ta lại chiến thắng một siêu cường khiến thế giới bàng hoàng kinh ngạc. Trước khi chiến thắng Điện Biên Phủ nhiều nước trên thế giới chưa biết đến Việt Nam bây giờ nhiều nước trên toàn cầu hướng về Việt Nam với con mắt thán phục; vì người chiến thắng, kẻ thua trận đã rõ ràng! Có điều lạ là kẻ thù không biết vì sao họ thua, và vì sao chúng ta lại chiến thắng. Các nước trên thế giới ủng hộ ta vì chúng ta chính nghĩa, nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, chúng ta biết đoàn kết, quân đội ta anh hùng...và đặc biệt phải nói đến sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những yếu tố chính kết thành sức mạnh tổng hợp tạo nên mọi chiến thắng của quân và dân nước Việt Nam. Người đã từng nói “ Không có gì quý hơn độc lập tự do” như là một chân lý đồng thời Người cũng đã từng nói “ Dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn chúng ta cũng phải quyết dành độc lập tự do” như một mệnh lệnh thôi thúc chúng ta vững bước đi lên. Trong chủ trương Người đề ra đường lối giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời chiến lược cách mạng ở cả hai miền: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam do một Đảng lãnh đạo thống nhất. Đây là sự sáng tạo đặc sắc về đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, của Đảng ta được hun đúc, chắt lọc kinh nghiệm qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của cha ông ta thủa trước. Mặt khác, chiến tranh của nhân dân ta là chính nghĩa, cộng với sự giúp đỡ, ủng hộ của bạn bè bốn biển năm châu, nên chúng ta đã dành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Với đường lối của Trung ương đề ra là: Chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn  diện, đánh  kết hợp  quân sự và chính trị, trên cả ba vùng chiến lược, kết hợp nhiệm phóng dân tộc với nghĩa vụ quốc tế, đánh Mỹ đồng thời phải bảo vệ hậu phương miền Bắc và phe xã hội chủ nghĩa. Như vậy, Đảng ta đã xác định đây là cuộc chiến tranh của nhân dân, của toàn dân tộc, đúng như trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến năm ngày 19/12/1946 Bác nói “ Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có  gươm,súng cuốc, thuổng, gậy gộc. Hễ là người Việt Nam thì ai cũng phải đứng lên chống thực dân Pháp”. Tư tư tưởng đó đã giáo dục, động viên toàn dân tộc đoàn kết, thống nhất, phát huy cao độ nội lực, trên toàn quốc, không kể đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, không phân biệt đảng phái, dân tộc, tôn giáo... đều tự nguyện tham gia kháng chiến chống giặc ngoại xâm vì một lẽ sống còn đó là : Độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Chúng ta kết hợp đấu tranh vũ trang, với đấu tranh binh vận, vận động nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc ta. Chúng ta chiến đấu để chiến thắng không phải vì cho riêng chúng ta mà cho lẽ phải trên đời, cho cả loài người trên toàn thế giới.

Sau khi nhận định tình hình chiến lược ta thấy, thời điểm mở cuộc tấn công vào sào huyệt cuối cùng của kẻ thù đã chín muồi. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ra mệnh lệnh cho năm cánh quân, tranh thủ thời gian, thần tốc tiến vể Sài Gòn, mệnh lệnh viết “ Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận giải phóng hoàn toàn miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Thực hiện mệnh lệnh này, năm cánh quân của ta như năm gọng kìm, không kể ngày đêm cùng đồng loạt tiến thẳng vào nội đô Sài Gòn. Ngày 14/4/1975 Bộ Chính trị đạt tên cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn là chiến dịch Hồ Chí Minh. Bộ Chính trị cũng hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn –Gia Định trước ngày 30/4/1975. Đúng như dự kiến 5 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch ra lệnh tổng công kích, đánh chiếm năm mục tiêu then chốt đó là: Sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham mưu, Dinh Độc Lập, Tổng Nha Cảnh sát, biệt khu Thủ đô; Từ bốn hướng Đông, Tây Bắc và Đông Bắc và Tây Nam quân ta đồng loạt tấn công vào Sài Gòn, phối hợp với quần chúng nhân dân nổi dậy, đến 11 giờ 30 phút ta đã làm chủ tất cả các mục tiêu và cắm cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng lên Dinh Độc lập. Tổng thống Dương Văn Minh và toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn tuyên bố đầu hàng cách mạng không điều kiện. Ngày 1/5/1975 ta tiếp tục giải phóng các tỉnh còn lại ở miền Nam. Chiến dịch Hồ Chí Minh thắng lợi hoàn toàn.

Từ đó đến nay vừa tròn 39 năm, trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dư­ới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần chiến đấu dũng cảm, m­ưu trí và sáng tạo của quân và dân ta; với sự ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế; với sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân; quân và dân ta đã làm nên chiến thắng vĩ đại-chiến thắng 30/4/1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đư­a cả n­ước tiến lên CNXH.

Chỉ tính riêng kết quả thắng lợi trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, từ ngày 26/4/1975 đến ngày 30/4/1975, quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân chủ lực, quân địa phư­ơng thuộc Quân khu 3 ngụy, những đoàn quân của các quân khu 1 và 2 chạy về cố thủ và chi viện cho địch ở Sài Gòn - Gia Định, diệt và làm tan rã khoảng 269.000 tên địch, thu 276.000 súng các loại (trong đó có 518 khẩu pháo), 409 xe tăng, thiết giáp, 858 máy bay các loại, 6.457 tàu, xuồng chiến đấu, 3.296 xe ô tô và nhiều ph­ương tiện chiến tranh khác, giải phóng hoàn toàn Sài Gòn-Gia Định, góp phần quyết định và thắng lợi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Một trong những nguyên nhân cơ bản và chủ yếu dẫn đến thắng lợi của Đại thắng Mùa xuân 1975, mà đỉnh cao là thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc oanh liệt vào ngày 30/4/1975 do sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này đư­ợc thể hiện ở chỗ: Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta anh dũng chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc; kiên quyết và khôn khéo sử dụng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng; thực hiện mục tiêu: Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đ­ưa cả n­ước tiến lên CNXH. Đảng ta đã giải quyết đúng đắn và sáng tạo mối quan hệ giữa cách mạng và chiến tranh cách mạng; giải quyết thành công nhiều vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng, xây dựng lực l­ượng cách mạng và ph­ương pháp cách mạng, về ph­ương thức tiến hành chiến tranh và về nghệ thuật quân sự; Đảng đã phát huy cao độ trí tuệ và bản lĩnh của con ngư­ời Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, để đánh thắng chiến tranh xâm l­ược của chủ nghĩa đế quốc. Đảng ta đã phát huy truyền thống yêu n­ước và lòng tự hào, tự tôn dân tộc, xây dựng, củng cố, phát triển khối đoàn kết thống nhất của toàn thể cộng đồng các dân tộc Việt Nam, phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc Việt Nam, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, phân hoá, cô lập triệt để kẻ thù, để giành chiến thắng hoàn toàn cho dân tộc Việt Nam.

Chiến thắng 30/4/1975 có ý nghĩa lịch sử sâu sắc và giá trị to lớn đối với sự nghiệp đổi mới đất nư­ớc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.

Về ý nghĩa lịch sử, từ đây, nhân dân ta đã vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của các n­ước đế quốc, vĩnh viễn thoát khỏi thảm hoạ đất nước bị chia cắt, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nư­ớc, bảo vệ những thành quả b­ước đầu của cách mạng XHCN ở miền Bắc, đư­a cả nư­ớc bư­ớc vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc và CNXH; đư­a dân tộc ta đứng vào hàng ngũ của quốc gia, dân tộc tiên phong trên thế giới. Đến nay chúng ta đã ra khỏi nhóm các nước nghèo, kém phát triển , trở thành nước trung bình trên thế giới có thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 1.300USD/người/năm.

Từ một đất nư­ớc bị ngoại bang xâm chiếm, từ một dân tộc bị nô lệ, đã đứng lên giành lại đ­ược nền độc lập dân tộc sau gần một thế kỷ mất n­ước và trở thành một quốc gia độc lập, thống nhất, có đầy đủ chủ quyền đ­ược pháp lý quốc tế thừa nhận, tôn trọng; có một quân đội hùng mạnh, có nền văn hoá, khoa học, kỹ thuật đang trên đà phát triển, có vị thế quan trọng, sánh vai cùng các nư­ớc trên thế giới. Hiện nay, chúng ta đang thực hiện việc hội nhập quốc tế ta đặt quan hệ ngoại giao với trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, đặt vấn đề quan hệ kinh tế với 160 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Ngày càng nâng cao vị thế trên trường quốc tế.

Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng, đế quốc Mỹ xâm l­ược và bè lũ tay sai Đảng ta, nhân dân ta và quân đội ta đư­ợc rèn luyện cả về phẩm chất và năng lực, càng nhận thức đ­ược sâu sắc hơn vị trí, khả năng và sức mạnh của mình trong thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh. Đến nay, chúng ta đã xây dựng lực lượng quân đội chính quy, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, vùng trời, vùng biển thân yêu của chúng ta.

Với chiến thắng vĩ đại này, đã tăng c­ường quan hệ hữu nghị, đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba nư­ớc Việt Nam, Lào, Cămpuchia anh em, góp phần quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc của từng n­ước, thủ tiêu chủ nghĩa thực dân ở ba n­ước Đông D­ương, phá vỡ phòng tuyến phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc ở Đông Nam Châu Á. Hiện nay cả ba nước đều tham gia trong khối ASEAN, tăng cường sức mạnh quốc tế.

Đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta thắng lợi, đã thức tỉnh, cổ vũ hàng trăm triệu ng­ười đứng lên dũng cảm đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành lại độc lập dân tộc, đư­a đất nư­ớc tiến vào quỹ đạo xây dựng CNXH, đem lại cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Chiến thắng 30/4/1975, cũng chính là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin, t­ư t­ưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của đư­ờng lối và ph­ương h­ướng cách mạng đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, đ­ường lối gi­ương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, đư­ờng lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tự lực, tự cư­ờng, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Đó cũng là thắng lợi của thời đại mới, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu n­ước của nhân dân ta, đã đ­ược Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đánh giá: “Năm tháng sẽ trôi qua, như­ng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu n­ước mãi mãi đư­ợc ghi vào lịch sử dân tộc ta như­ một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tư­ợng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con ng­ười, và đi vào lịch sử thế giới như­ một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm vóc quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

Qua hai cuộc kháng chiến chúng ta rút ra một số kinh nghiệm sau:

Một là: Phải xây dựng Đảng vững mạnh đáp ứng mọi tình huống sảy ra. Trong hai cuộc kháng chiến, dù trong hoàn cảnh khó khăn đến mấy Đảng ta đều rất bình tĩnh, kiên định mục tiêu cách mạng đó là, độc lập dân tộc và chủ nmghiax xã hội, biết người, biết ta, đề ra phương hướng và đường lối đúng đắn, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta.

Hai là: Phải biết dựa vào dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Đảng ta đã biết phát huy sức mạnh nội lực của nhân dân với quan điểm “ lấy dân làm gốc”, dân là người làm nên lịch sử và dựa vào truyền thống yêu nước yêu nước nồng nàn của dân. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã chứng minh hùng hồn sức mạnh của dân.

Ba là: Phải xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng hậu phương vững chắc làm chỗ dựa cho chiến trường. Trên quan điểm “ chia rẽ là chết, đoàn kết thì sống” cho nên Đảng ta đặc biệt chú trọng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công-nông-đội ngũ tri thức làm nền tảng cho mọi sức mạnh, tập hợp các lực lượng yêu nước vào một mặt trận chung. Chú trọng xây dựng miền Bắc vững mạnh về mọi mặt để làm chỗ dựa vững chắc cho miền Nam.

Bốn là: Phải biết tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của lực lượng yêu chuộng hòa bình của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới kể cả sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần để rút ngắn thời gian kháng chiến, làm hậu thuẫn thúc đẩy cuộc kháng chiến sớm thành, đỡ thiệt hại về sức người , sức của của chúng ta.

Ở Sa Pa trong cuộc kháng chiến chống Pháp, tiễu phỉ, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện nhân dân các dân tộc và lực lượng vũ trang đã tham gia hàng nghìn ngày công, ủng hộ nhiều lương thực, thực phẩm và tiền của phục vụ cho các chiến dịch. Ta đã tiêu diệt 299 tên địch, bắt sống 417 tên, gọi hàng 340 tên, bắn rơi một máy bay của Pháp bằng súng bộ binh, phá hủy một xe ô tô, thu hồi 1040 súng các loại, 44 tấn đạn dược và nhiều phương tiện quân sự khác. Do đó, năm 1998 nhân dân các dân tộc và lực lượng vũ trang huyện Sa Pa đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, năm 2000 nhân dân” và lực lượng vũ trang thị trấn Sa Pa được Đảng , Nhà nước phong tăng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng vũ trang và các dân tộc huyện Huyên Sa Pa thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và Nghị quyết 16 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, thực hiện nhiệm vụ “ Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà” . Song song với việc phát triển kinh tế-xã hội, công tác quốc phòng-an ninh, xây dựng củng cố hệ thống chính trị được coi trọng. Quân và dân Sa Pa ra sức sản xuất và sẵn sàng chiến đấu, đồng thời tích cực chi viện cho cách mạng miền Nam. Các trung đội phòng không của dân quân du kích được thành lập tổ chức trực chiến trên các địa bàn trọng điểm bảo vệ Sa Pa khi máy bay Mỹ tiến công bắn phá. Lực lượng dân quân tự vệ của các cơ quan và các xã được củng cố, huấn luyện bảo đảm sẵn sàng chiến đấu. Toàn huyện có 2.232 thanh niên nhận lệnh lên đường làm nhiệm vụ chiến đấu trên các chiến trường. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Sa Pa trở thành hậu phương vững chắc, góp phần động viên thế hệ trẻ lên đường làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, trong chiến đấu nhiều đồng chí đã anh dũng lập công xuất sắc, được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều Huân chương cao quý và có những đồng chí đã trở thành dũng sỹ diệt Mỹ.   

Hiện nay, chúng ta đang ở trong thời kỳ hội nhập quốc tế, đổi mới sâu sắc và toàn diện, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, để phát huy tinh thần chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và đại thắng mùa xuân 1975, mỗi cán bộ, đảng viên, tuổi trẻ và nhân dân ta cần ra sức phấn đấu, tích cực đẩy mạnh việc thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI),  nêu cao tinh thần yêu n­ước, yêu CNXH, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng; lao động, học tập và công tác một cách khoa học, có chất l­ượng, hiệu quả cao để góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra. 

 

Họ tên no image
no image
Tiêu đề no image
Nội dung no image
Mã kiểm tra no image


 

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập