Sáng 15/11/2017, Quốc hội đã thông qua Luật
Lâm nghiệp gồm 12 chương, 108 điều. So với Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004
thì Luật Lâm nghiệp bổ sung 4 chương mới: chế biến, thương mại lâm sản; khoa
học và công nghệ, hợp tác quốc tế về lâm nghiệp; định giá rừng, đầu tư, tài
chính trong lâm nghiệp; quản lý nhà nước về lâm nghiệp và kiểm lâm.
Điểm đối mới quan trọng nhất của Luật Lâm
nghiệp là việc coi lâm nghiệp là ngành kinh tế - kỹ thuật liên kết theo chuỗi
giá trị sản phẩm lâm nghiệp, từ quản lý, bảo vệ, phát triển đến sử dụng
rừng, chế biến và thương mại lâm sản. Việc mở rộng phạm vi
điều chỉnh theo hướng liên kết theo chuỗi các hoạt động lâm
nghiệp nhằm tạo ra rừng, sản xuất và cung ứng lâm sản đáp ứng cho nền kinh tế
quốc dân và đời sống xã hội, đảm bảo chế biến và xuất khẩu lâm sản có trách
nhiệm.
Chế biến và thương mại
lâm sản được coi như một trong
những thế mạnh trong chuỗi giá trị sản phẩm lâm nghiệp. Khẳng định chế biến lâm
sản không phải là ngành kinh doanh có điều kiện, Luật tập trung quy định
rõ chính sách phát triển
lâm sản theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp hợp tác, liên doanh, liên kết với chủ
rừng để tạo vùng nguyên liệu, quản lý rừng bền vững, tiêu thụ sản phẩm, ứng
dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ mới và các giải
pháp tăng trưởng xanh, nâng cao giá trị gia tăng, ưu tiên phát triển công
nghiệp hỗ trợ trong chế biến lâm sản. Việc chế biến mẫu vật các loài thực
vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và mẫu vật các loài thực vật rừng
hoang dã, động vật rừng hoang dã nguy cấp thuộc các phụ lục của Công ước CITES
phải bảo đảm các điều kiện như: mẫu vật có nguồn gốc hợp pháp từ cơ sở trồng
cấy nhân tạo hoặc gây nuôi sinh sản, sinh trưởng; có nguồn gốc khai thác hợp
pháp từ tự nhiên. Nhà nước xây dựng và vận hành Hệ thống bảo đảm gỗ hợp
pháp Việt Nam; ban hành tiêu chí, quy trình, thủ tục, thẩm quyền phân loại
doanh nghiệp khai thác, vận chuyển, tiêu thụ, chế biến và xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ. Chính sách phát triển thị trường lâm sản theo hướng tổ chức, cá
nhân hợp tác, liên kết, thu
mua, tiêu thụ lâm sản được cung cấp tín dụng ưu đãi. Nhà nước hỗ trợ hoạt động
xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, thông tin thị
trường lâm sản trong nước và quốc tế.
Chuyển hướng khai thác lợi ích từ rừng sang
sản phẩm phi gỗ, đó là dịch vụ môi trường rừng. Khái niệm “dịch vụ môi trường rừng” được quy
định là loại hình sản phẩm phi lâm sản do rừng mang lại cho các nhu cầu phát
triển kinh tế và đời sống con người, trong cơ chế thị trường nhất là yêu cầu
phát triển bền vững hiện nay các dịch vụ này được lượng hóa giá trị hàng hóa
được trao đổi mua bán trên thị trường. Tổ
chức, cá nhân được hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng phải chi trả tiền dịch
vụ môi trường rừng cho người đã tạo ra dịch vụ, tiền chi trả dịch vụ môi trường
rừng được chuyển vào quỹ bảo vệ và phát triển rừng và được phân phối cho những
người tham gia trực tiếp bảo vệ và phát triển rừng. Đây là điểm mới tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi
cho việc chuyển hướng khai thác lợi ích tiềm năng của rừng, từ sản phẩm gỗ và
lâm sản ngoài gỗ sang sản phẩm phi gỗ, tạo nguồn tài chính bền vững để đầu tư
trực tiếp vào rừng.
Luật Lâm nghiệp cũng quy định rõ 2 nhóm hình thức sở hữu
rừng: rừng sở hữu toàn
dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và rừng sở hữu của tổ chức, hộ gia đình,
cá nhân, cộng đồng dân cư. Mở rộng hơn quyền hưởng lợi của chủ rừng đối với
rừng tự nhiên phục hồi, rừng nghèo. Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên có khả năng tái sinh
nên việc quy định rõ các
hình thức sở hữu rừng nhằm thừa nhận thành quả lao động, kết quả đầu tư của
người làm nghề rừng; tạo động lực khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào rừng
nghèo và hưởng lợi từ rừng; bảo đảm quản lý rừng tốt hơn, hiệu quả hơn.
Về tổ chức quản lý ngành
lâm nghiệp, Luật đã đổi mới quy định khung về cơ quan có chức năng tham mưu quản lý nhà nước chuyên
ngành về lâm nghiệp và tổ chức kiểm lâm. Trên cơ sở đó Chính phủ quy định
chi tiết về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan
này. Quy định như vậy là linh hoạt và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hoạt động
lâm nghiệp. Đối
với kiểm lâm, Luật cũng bổ sung quy định cụ thể hơn về một số
cơ chế, chính sách, đồng thời thêm thẩm quyền để bảo đảm hành lang pháp lý cần
thiết cho lực lượng kiểm lâm tổ chức hoạt động bảo vệ rừng, đấu tranh, phòng
ngừa, ngăn chặn hành vi xâm hại rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng hiệu quả hơn.
Quản lý rừng bền vững cả về diện tích rừng,
chất lượng rừng, đảm bảo hài hòa các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng an ninh, bảo tồn đa dạng sinh học, nâng cao giá trị dịch vụ môi trường
rừng, ứng phó với biến đổi khí hậu. Chủ rừng phải thực hiện
các quy
định của Nhà
nước về quản lý rừng bền vững, bảo đảm kinh doanh rừng
lâu dài, liên tục;
tối ưu hóa hiệu
quả kinh tế,
xã hội, môi trường; chủ rừng là tổ chức phải xây dựng,
thực hiện phương án quản lý rừng bền vững; Nhà nước quy định bộ tiêu chí quản
lý rừng
bền vững và tổ chức thực hiện cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững. Quản lý chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng
rừng tự nhiên. Không chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên, trừ trường hợp phục
vụ quốc phòng, an ninh, các trường hợp cấp thiết khác theo quy định của Chính
phủ.
Rừng sản xuất là rừng tự
nhiên được khai khác theo phương án quản lý rừng bền vững. Trong trường hợp cần
thiết sẽ thực hiện tạm dừng khai thác gỗ rừng tự nhiên trong một thời gian nhất
định để bảo vệ rừng tự nhiên hiện có và có thời gian để rừng sinh trưởng, phục
hồi, đảm bảo an ninh môi trường, đáp ứng nhu cầu lâu dài về lâm sản.
Luật cũng quy định về hình thức cho thuê
rừng, thay thế cho việc giao rừng có thu tiền sử dụng rừng. Nhà nước cho các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân
thuê rừng sản xuất; đối với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ chỉ áp dụng hình thức
cho thuê môi trường rừng và thuộc quyền của chủ rừng. Nhà nước bảo đảm nguồn lực cho hoạt động quản
lý, bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và các hoạt động phục vụ
quản lý nhà nước về lâm nghiệp. Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng dân cư hoạt động lâm nghiệp.
Ngoài ra, Luật Lâm nghiệp cũng có
một số điểm mới như: định nghĩa về rừng được xác định theo 3 tiêu chí: diện tích;
chiều cao cây; độ tàn che để phù hợp với thực tiễn Việt Nam và đáp ứng yêu cầu
chung của quốc tế. Quy định rõ chỉ các cộng
đồng dân cư có cùng phong
tục, tập quán, văn hoá, tín ngưỡng và có quy ước, hương ước phù hợp với quy
định của pháp luật mới được giao rừng và trở thành chủ rừng. Thay thế quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng ở 4
cấp (trung ương, tỉnh, huyện, xã) bằng quy hoạch lâm nghiệp cấp quốc
gia. Hoạt động khoa học và công nghệ về lâm nghiệp theo hướng Nhà nước có
cơ chế, chính sách nghiên cứu khoa học và công nghệ phù hợp chu kỳ sinh trưởng,
phát triển của rừng và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong lâm nghiệp; Nhà
nước ưu tiên đầu tư cho một số hoạt động, khuyến khích các cá nhân, tổ chức
trong và ngoài nước tham gia, thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học trong
lâm nghiệp./.
Theo http://tongcuclamnghiep.gov.vn