Đại tướng Võ Nguyên Giáp với chiến thắng Điện Biên Phủ
Lượt xem: 32

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có đóng góp quan trọng trong việc tham gia chỉ đạo, tổ chức tiến hành chiến tranh nhân dân, bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước, thực hiện chiến tranh toàn dân, toàn diện. Để có được chiến thắng ở Điện Biên Phủ, phải kể đến nhiều lý do, nhiều nguyên nhân nhưng không ai có thể quên được “một quyết định có tính lịch sử” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Với tư duy của một nhà quân sự lớn, mặc dù các đơn vị đều sẵn sàng tiến công, vì mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng, nhưng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, với cái nhìn và nhận định của một nhà quân sự lỗi lạc, tài ba, đã quyết định hoãn trận đánh để thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” chuyển sang “đánh chắc, tiến chắc” bằng sức mạnh tổng hợp và lối đánh du kích của chiến tranh nhân dân Việt Nam, được hun đúc qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Sau này, khi tổng kết chiến thắng Điện Biên Phủ, các tướng lĩnh và các nhà nghiên cứu nước ngoài đều thống nhất nhận định: nguyên nhân chính làm nên chiến thắng của Việt Minh là đã tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Năm 1954, sau khi thất bại trở về Pháp, tướng Đờ Cát-tơ-ri đã trả lời trước Ủy ban Điều tra của Bộ Quốc phòng rằng: người ta có thể đánh bại một quân đội, chứ không thể đánh bại được một dân tộc.

 Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911,  ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho có truyền thống cách mạng, yêu nước. Truyền thống đó của gia đình và địa phương đã ảnh hưởng sâu sắc tới tuổi trẻ và suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng. Khi học ở trường Quốc học Huế, người thanh niên yêu nước Võ Nguyên Giáp  đã tiếp nhận được tư tưởng, chí hướng lớn của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và đặc biệt là tư tưởng yêu nước của Nguyễn Ái Quốc. Tên ông còn được biết đến với cách gọi quen thuộc đó là tướng Giáp hoặc anh Văn, là một nhà chỉ huy quân sự và chính trị của Việt Nam. Tháng 1 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm Đại tướng cho ông. Ông là Đại tướng, Tổng tư lệnh đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam ở tuổi 37, ông cũng là một trong những người góp công sức của mình thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà nước dân chủ, nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, được Chính phủ Việt Nam đánh giá là "người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh", là chỉ huy chính trong các chiến dịch Điện Biên Phủ, đánh bại thực dân Pháp và cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

Xuất thân từ một trí thức, từ một giáo viên dạy sử, ông sớm trở thành người có đầu óc và đường lối quân sự đúng đắn, được đánh giá là một trong những nhà lãnh đạo quân sự tài ba nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông cũng được đánh giá là một trong những vị tướng kiệt xuất trên thế giới. Ông được nhiều báo chí ca ngợi, tôn sùng là anh hùng của nhân dân Việt Nam.

Dư luận quốc tế đánh giá chiến thắng Điện Biên Phủ và công lao của ông rất cao: Cộng hòa Pháp cho rằng một sự kiện long trời lở đất làm lung lay tận gốc rễ thế lực thực dân đế quốc phương Tây, một tấm gương sáng và kinh nghiệm quí báu cho trào lưu giải phóng dân tộc khắp thế giới. Và điều quan trọng hơn cả là chiến thắng Điện Biên Phủ đã có tác động thật sự đưa đất nước Việt Nam lên bản đồ thế giới và xác định chủ quyền dân tộc của người Việt.  Còn Algieri: Điện Biên Phủ có một tầm quan trọng trong thế giới thứ ba. Người Việt Nam có lẽ chưa ý thức ngay về điều đó. Một đất nước nhỏ bé với những phương tiện rất giới hạn đã trở thành một cường quốc quân sự và đánh bại được một cường quốc lớn. Đối với những người cách mạng không có nhiều phương tiện trong tay, kinh nghiệm Việt Nam giúp họ chống lại được những xu hướng phản cơ hội và thỏa hiệp. Ngày nay ta không thể nói ảnh hưởng đó lớn đến như thế nào vì chúng ta đang sống trong một bối cảnh khác, nhưng việt Nam luôn là nguồn cảm hứng chính yếu cho các phong trào giải phóng”. Dư luận Mỹ: Chiến thắng Điện Biên Phủ được giải thích trước hết bởi cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc Việt Nam, bởi sự tài tình trong chỉ huy chính trị và quân sự, bởi sự ủng hộ mang tính quốc tế của các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới; về phía nước Pháp - đó là "sự mù quáng của thế giới thuộc địa muốn được áp đặt sức mạnh và lợi ích của nó đối với một dân tộc". Ngoại trưởng Pháp khẳng định: Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đạt tới đỉnh cao vinh quang với tư cách là một nhà chỉ huy quân sự, bằng thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, đặt dấu chấm hết cho cuộc chiến tranh Đông Dương và sự đô hộ của thực dân Pháp đối với Việt Nam. Tiếp đến, năm 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp một lần nữa thực hiện thành công chiến thắng lịch sử trước đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước Việt Nam.

Năm 1941 Võ Nguyên Giáp được Đảng và Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ phụ trách quân sự, ông đã nhanh chóng tập hợp các thanh niên yêu nước để thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ngày 22 tháng 12 năm 1944-tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này.

 

 Đội quân này được phát triển và mở rộng nhanh chóng. Cùng với các phong trào nổ dậy của quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với sự chỉ huy tài tình của tướng Giáp chúng ta đã giành chính quyền trong cả nước. Ngày 02 tháng 9 năm 1945, tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ghi tên nước ta trên bản đồ thế giới. Niềm vui chưa trọn vẹn, cuối năm 1945 thực dân Pháp tiếp tục gây hấn ta. Ngày 19 tháng 12 năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “ Toàn quốc kháng chiến”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và quân đội ta đã trung thành tuyệt đối với đường lối của Đảng và Bác Hồ kính yêu, phát triển sáng tạo cách đánh, nâng lên thành tầm cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Đến cuối tháng 9-1953, cuộc chiến tranh của người Pháp ở Đông Dương đã kéo dài 8 năm, thực dấn Pháp lâm vào thế bị động trước phải đưa quân đối phó trên khắp các chiến trường. Trong khi ta đang tích cực chuẩn bị theo kế hoạch tác chiến Đông Xuân năm 1953 - 1954. Ta chủ trương di chuyển lực lượng chủ lực lên Tây bắc mở những cuộc tấn công vào những chỗ mà địch tương đối yếu. Phát hiện thấy ta di chuyển lực lượng chủ lực lên Tây Bắc, Tổng chỉ huy quân đội Pháp H.Na-va lúc bấy giờ đã quyết định điều lực lượng cơ động sang Trung Lào và tăng cường phòng giữ Điện Biên Phủ. Ngày 20-11-1953, Pháp cho quân nhảy dù xuống đánh chiếm Điện Biên Phủ, từng bước biến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Ngày 03-12-1953, H.Na-va quyết định giao chiến với ta tại Điện Biên Phủ. Bộ Chính trị của ta họp nhấn mạnh phương châm hành động đó là “ Tích cực, chủ động, linh hoạt”. Nguyên tắc chỉ đạo tác chiến là: “ tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta; đánh chắc, đánh tiêu diệt; chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh; giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng”. Tây Bắc là một hướng chiến lược Bộ Chính trị đã chọn.

Để phá tan kế hoạch Na-va, mở đầu kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954, dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị và chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ta chủ động mở các cuộc tiến công lên Tây Bắc, Trung Lào và Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên, lấy Tây Bắc làm hướng chính. Tháng 11-1953, Đại đoàn 316 được lệnh tiến quân lên Tây Bắc, giải phóng Lai Châu, phần đất cuối cùng còn lại ở Tây Bắc nằm trong tay quân đội Pháp. Bị uy hiếp ở chỗ sơ hở nhất, phát hiện ra Đại đoàn 316 của ta đang hành quân hướng lên Tây Bắc, sợ mất Tây Bắc và hòng che chở cho Thượng Lào, trong 3 ngày từ 20 đến 22-11-1953, tướng Na-va vội vã tiến hành cuộc hành binh “Chuột biển” cho 6 tiểu đoàn dù thiện chiến và một số đơn vị pháo binh nhảy dù chiếm đóng thung lũng Điện Biên Phủ. Ngày 3-12-1953, Na-va hạ quyết tâm xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh và quyết định: Tiếp nhận giao chiến với chủ lực Việt Minh ở Tây Bắc, lấy Điện Biên Phủ làm trung tâm. Ngày 5-12-1953, các đơn vị đồn trú ở Điện Biên Phủ được chuyển thành “Binh đoàn tác chiến Tây Bắc” và ngày 7-12-1953 Na-va quyết định rút toàn bộ quân lính từ Lai Châu về tăng cường cho Điện Biên Phủ. Trước tình hình đó, Tổng quân ủy ta nhận định: “Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta và chủ trương: Giữ địch ở lại Điện Biên Phủ và ta có thể đánh địch ở Điện Biên Phủ”. Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị họp nghe Tổng quân uỷ báo cáo quyết tâm và phương án tác chiến. Sau khi phân tích kỹ tình hình địch, ta, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ và phương án tác chiến của Tổng quân uỷ. 

Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh cho bộ đội chủ lực các mặt trận nhanh chóng bước vào tiến công địch. Các đại đoàn chủ lực được lệnh tiến quân lên Tây Bắc. Ngày 10-12-1953 ta tiến công địch ở Lai Châu, cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 bắt đầu.

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị đồng ý mở chiến dịch Điện Biên Phủ, với phương châm: “Đánh nhanh, thắng nhanh”. Bộ Tư lệnh Chiến dịch Điện Biên Phủ được thành lập, Bác Hồ giao cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư Đảng uỷ, kiêm Tư lệnh mặt trận, Trước khi ra trận Bác nói “Bác giao cho chú toàn quyền, tướng quân tại ngoại, trận này chắc thắng thì đánh, không chắc thắng không đánh”. Sau nhiều đêm trằn trọc, suy nghĩ, nung nấu ý chí, Đại tướng đã đưa ra quyết định đúng đắn, mặc dù ông biết rằng quyết định ấy cũng có người không ủng hộ.

Ngày 25/1/1954, tại cuộc họp Đảng ủy mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đưa ra phương án: "Đánh nhanh thắng nhanh" mang nhiều yếu tố chủ quan, không đánh giá đúng tình hình thực lực của hai bên, không thể đảm bảo chắc thắng. Cuối cùng Đại tướng quyết định dừng trận đánh, kéo pháo ra, chuyển phương án từ “đánh nhanh, thắng nhanh sang đánh chắc, tiến chắc”.Đây là quyết định đáng ghi nhớ  của cuộc đời binh nghiệp của ông .

Chiến dịch Điễn Biên Phủ được chia thành ba giai đoạn, tóm tắt như sau:

Giai đoạn 1: Từ 13/3 đến 17/3/1954, ta tiêu diệt phân khu phía Bắc của Pháp, lực lượng tiêu diệt các cứ điểm Him Lam, đồi Độc Lập và trung tâm đề kháng Bản Kéo. Ta đã tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam, và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Tư lệnh pháo binh của địch ở Điện Biên Phủ bất lực trước pháo binh của ta đã dùng lựu đạn tự sát.

Giai đoạn 2: Từ 30/3 đến 30/4ta tiến đánh phân khu trung tâm, đặc biệt là các điểm cao quan trọng phía Đông, vây lấn bóp nghẹt Tập đoàn cứ điểm.

Giai đoạn này, chúng ta tiến đánh tại các cao điểm C1, D1, cao điểm E và nã súng cối vào đồi A1. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày nhất, giai đoạn gay go, quyết liệt, giằng co nhất có những lúc ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào.Đặc biệt tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2 khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch bị tổn thất nặng nề, rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.

Giai đoạn 3: Từ ngày 01 đến 07/5/1954.

Mở đầu kế hoạch đợt 3 là tiếp tục hoàn thành nốt những nhiệm vụ đã đề ra cho đợt 2: tiêu diệt hoàn toàn hai cao điểm A1 và C1, đồng thời đánh chiếm thêm một số cứ điểm ở phía tây và phía đông thu hẹp thêm nữa phạm vi chiếm đóng của quân Pháp, chuẩn bị cho tổng công kích.

Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch. Chiến dịch Điện Biên Phủ vỡ òa trong niềm vui chiến thắng. Chiều ngày 07 tháng 5 năm 1954 cờ quyết chiến quyết thắng của ta tung bay trên nóc hầm của tướng Đờ-cat tơ-ri, chấm dứt chín năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. 

 

 

Đánh giá về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là, một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới". Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là một trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang của thời đại Hồ Chí Minh. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng vĩ đại nhất, giáng đòn quyết định, tạo bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh giữa ta và địch, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương; bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng Tháng Tám; một nửa nước được giải phóng, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ gắn liền với tên tuổi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị Đại tướng tài ba có uy tín trong nước và trên thế giới, một nhà báo, nhà giáo, nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam, làm tăng niềm tự hào dân tộc, niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng, một dạ chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đây là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Nó mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân loại. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ giáng một đòn chí mạng vào nền móng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh sập thành luỹ của chủ nghĩa thực dân cũ ở vị trí xung yếu nhất, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới; báo hiệu sự thất bại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa thực dân mới do đế quốc Mỹ cầm đầu. Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “ Thắng lợi của nhân dân Việt Nam có tính thời đại sâu sắc. Thắng lợi ấy khẳng định một chân lý “ Bất kỳ một quốc gia nào, dù có hùng mạnh đến đâu, nếu dùng bạo lực áp đặt ý chí của mình lên dân tộc khác thì cuối cùng nhất định thất bại”. Chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi; đã thôi thúc và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ la tinh đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.

Năm nay kỷ niệm 60 năm ngày chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp của chúng ta không còn nữa, vĩnh biệt Đại tướng chúng ta nguyện một lòng, một dạ theo Đảng  đến cùng. Tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và những phẩm chất cao đẹp của Đại tướng, gắn liền với việc thực hiện Nghị quyết Trung ưong 4 (khóa XI) rèn trí, luyện tài, xây dựng bảo vệ quê hương đất nước ngày càng mạnh giầu, như một lời nhắn gửi, một lời hứa hẹn, một  nén tâm nhang gửi nơi suối vàng làm ấm lòng  linh hồn Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các anh hùng liệt sỹ Điện Biên.

  (Ghi chú: Trong bài có tham khảo tư liệu của một số đồng nghiệp)

 

Họ tên no image
no image
Tiêu đề no image
Nội dung no image
Mã kiểm tra no image


 

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập