Số lượng gấu nuôi nhốt trong các trang trai, tại Việt Nam hiện đang tiếp tục suy giảm, từ hơn 4.300 cá thể (năm 2005) còn khoảng 1.250 cá thể (đầu năm 2015). Trong bối cảnh đó, tại một số địa phương, vấn để bổi hoàn để chủ trại chuyển giao gấu nuôi nhốt cho Nhà nước đã được đưa ra thảo luận.
Có lẽ, quan điểm bổi hoàn để chuyển giao gâu này xuất phát từ nguyên nhân cho rằng các chủ trại sẽ "mất trắng" khoản tiền đầu tư để mua và nuôi nhốt gấu.
ENV tin rằng đây là một suy nghĩ rất lệch lạc. Chính lối suy nghĩ này đã khiến cho các loài động vật hoang dã (ĐVHD) của Việt Nam, đặc biệt là các loài nguy cấp, đứng trước nguy cơ diệt vong. Hầu hết gấu nuôi nhốt tại các trang trại hiện nay đều bị săn bắt trái phép từ tự nhiên khi còn nhỏ. Các chủ trại gấu đã nuôi nhốt chúng trong nhiều năm và làm giàu từ việc trích hút, buôn bán mặt gấu trái phép
Quyết định số 47/2006/QĐ-BNN, một trong những văn bản hướng dẫn đầu tiên của Nhà nước về quản lý gấu nuôi nhốt, đã khẳng định Gấu không thuộc quyền sở hữu của chủ trang trại nuôi nhốt mà thuộc sự quản lý của Nhà nước. Cho dù không có sự tồn tại của Quyết định này thì thực tế là các cá thể gấu nuôi nhốt đã bị săn bắt từ tự nhiên và buôn bán trái phép, do đó khi phát hiện, chúng cần ngay lập tức bị tịch thu theo đúng quy định của pháp luật. Nếu không phải vì số lượng bị phát hiện quá lớn thì toàn bộ gấu nuôi trong các trang trại phải bị tịch thu khi Chính phủ bắt đầu chiến dịch chấm dứt tình trạng nuôi nhốt gấu lấy mật tại Việt Nam từ năm 2005. Không những vậy, các chủ trại gấu cũng phải bị trừng trị nghiêm khắc cho những vi phạm nghiêm trọng quy định pháp luật về bảo vệ ĐVHD. Tuy nhiên, các chủ trại này đã rất may mắn vì không những không bị trừng trị mà còn được Chính phủ "nhân nhượng" cho phép tiếp tục nuôi gấu nếu cam kết không khai thác và buôn bán mật gấu.
Chính vì vậy, thật khôi hài khi các chủ trang trại đòi tiền đền bù cho việc chuyển giao gấu và một số cơ quan chức năng địa phương dường như đang ủng hộ yêu cầu vô lý này.
Một nguyên tắc chung được mọi xã hội công nhận là những kẻ phạm pháp không được hưởng lợi từ tội ác mà chúng gây ra cũng như bằng chứng vi phạm trong bất cứ trường hợp nào cũng không thể để tội phạm tiếp tục lưu giữ. Chính vì thế, kẻ cắp không bao giờ được bồi thường cho chiếc xe mà chúng đã “ăn trộm” những kẻ buôn bán ma túy cũng không đươc bồi thường cho số ma túy đã bị các cơ quan chức năng tịch thu và tội phạm buôn bán vũ khí trái phép không có quyến đòi bồi thường cho số vũ khí bị phát hiện. Nguyên tắc này cần được áp dụng kiên quyết đối với chủ trại gấu, những người đã mua bán, kinh doanh trái phép mật và các bộ phận của loài động vật được bảo vệ ở mức độ cao nhất bởi các quy định cùa pháp luật này. Các loại hình tội phạm liên quan đến ĐVHD, đặc biệt là các loài nguy cấp, quý, hiểm như hổ, gấu cần phải bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật mà không nên được khoan nhượng.
Bồi thường cho các chủ trại gấu không những vô tình tiếp tay cho hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng mà còn gia tăng rủi ro đối với loài ĐVHD nguy cấp này khi tạo nên thị trường cho việc buôn bán gấu nuôi nhốt. Nếu tiền lệ được tạo ra, các chủ trại gấu khác củng sẽ đạt được những thỏa thuận tương tự. Do đó, “bán gấu cho Nhà nước” trở thành một “ngành kinh doanh” có lời đối với những kẻ đáng lẽ phải bị pháp luật trừng trị. Kỷ cương của Nhà nước, của xã hội chính vì thế sẽ bị đe doa nghiêm trọng.